Thứ Tư, 8 tháng 3, 2017

Bí kíp nuôi cá ngạnh sông cho lãi suất cao

Việt Nam là nước có mạng lưới sông ngòi dày đặc với hệ thống các con sông lớn rất thuận lợi cho việc phát triển và nuôi trồng thủy sản. Theo thống kê của Tổng cục thủy sản mới đây nhất, cho thấy sản lượng thủy sản nước ta liên tục tăng cao, bình quân đạt 15,77% mỗi năm. Trong đó, sản lượng thủy sản từ mô hình nuôi cá ngạnh sông chiếm một phần không nhỏ.
 Với kinh nghiệm nuôi thành công giống cá ngạnh sông tại lòng hồ thủy điện Hòa Bình, Trung tâm thủy sản Minh Phú xin gửi tặng bà con nông dân bí kíp nuôi giống cá này cho sản lượng cao gấp 3 lần cách nuôi thông thường.
1-Đầu tiên bà con cần chuẩn bị ao nuôi - THỦY SẢN SẠCH
Diện tích ao nuôi to hay nhỏ ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của cá thông qua các biến đổi của điều kiện lý hóa của môi trường. Nếu ao nuôi có diện tích lớn thì độ thoáng càng lớn, điều kiện lý hóa học càng ổn định, thủy sinh vật phát triển phong phú, cá ngạnh sông càng lớn nhanh. Ngược lại, nếu ao quá nhỏ, độ thoáng thấp, yếu tố lý hóa học biến đổi nhanh, thủy sinh vật phát triển kém, không thuận lợi cho sự phát triển của cá quả hoa, thậm chí dễ bị chết khi điều kiện thay đổi quá nhanh. Vì vậy, tùy theo điều kiện thực tế mà xây dựng các ao nuôi có diện tích vừa phải. Theo kinh nghiệm thì các ao nuôi có diện tích từ 500 – 2000m2 là phù hợp.
2 – Nguồn nước và chất nước phải “SẠCH”
a0-nuoi-ca-nganhNguồn nước cung cấp cho ao nuôi cần phải sạch
Nuôi cá ngạnh sông cần phải có nguồn nước chủ động để kịp thời bổ sung cho ao nuôi, đảm bảo mức nước trong ao luôn trong khoảng từ 1,5 – 2m. Chất nước không được nhiễm bẩn, không có chất độc, hàm lượng oxy từ 3mg/l trở nên, độ PH từ 7 – 8,5. Thường xuyên bổ sung nước cho ao nuôi có tác dụng kích thích sự phát triển của các sinh vật làm thức ăn cho cá và cải thiện môi trường nuôi giúp cá phát triển nhanh.
3 – Thời vụ thả cá và tiêu chuẩn cá giống thả. - THỦY SẢN MINH PHÚ
Cá giống được thả vào 2 vụ chính: Vụ xuân được thả từ tháng 2 – 3 (thường dùng giống lưu), vụ thu từ tháng 8 – 9 (vào thời gian này, khi thả giống cần có biện pháp chống rét cho cá trong mùa đông).ca-nganh-song
Cá ngạnh sông khi lớn có trọng lượng từ 3-4kg
Tiêu chuẩn cá ngạnh sông giống cần lấy tiêu chuẩn chiều dài làm chính, bên cạnh đó phải xét đến khối lượng, hình thái ngoài, màu sắc, bệnh tật, độ đồng đều … Cá giống thả trong ao có 2 loại chính: loại được sản xuất trong năm (thường được thả vào vụ thu) và loại được giữ qua đông (còn gọi là giống lưu) thường được thả vào vụ xuân. Thả cá giống lớn có nhiều ưu điểm nhưng cũng gặp nhiều khó khăn (tốn kém về thức ăn và ao nuôi, càng lớn, tốc độ tăng trưởng của cá càng chậm). Thả cá giống nhỏ tỷ lệ hao hụt lớn, cá thu hoạch nhỏ, giá trị thương phẩm kém, năng suất và sản lượng thấp, nhiều nơi còn không thu hoạch kịp cá vì chưa đủ kích cỡ, khi vào vụ đông, hoặc mùa mưa bão, việc giữ cá ngạnh còn khó khăn và tốn kém hơn rất nhiều.
4 – Mật độ thả cá giống THỦY SẢN MINH PHÚ
Mật độ cá giống thả là chỉ số lượng cá giống trong một đơn vị diện tích ao. Đây là một chỉ tiêu kỹ thuật được xác định một cách hợp lý. Đơn vị tính được thống nhất theo đơn vị con/m2, con/ha, một số nơi quy định là con/sào, con/m3. Cũng có khi dùng đơn vị kg/ha, kg/sào… Trong đó kg đại diện cho một lượng cá nhất định.
mat-do-nuoiMật độ nuôi cá phù hợp sẽ cho sản lượng cao
Mật độ cá thả dày quá hay thưa quá đều ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng và giá trị thương phẩm của từng đối tượng, vì vậy khi thả cá cần dựa vào thực tiễn sản xuất và dựa vào công thức để tính mật độ thả cá ngạnh sông.
Mật độ thả cá dựa vào kinh nghiệm thực tiễn:
+Căn cứ vào điều kiện môi trường ao nuôi bao gồm diện tích, độ sâu, mặt thoáng, nguồn nước.
+Căn cứ vào yêu cầu về năng suất, sản lượng và khả năng giải quyết vấn đề thức ăn, phân bón cho yêu cầu này.
+Căn cứ vào trình độ quản lý và khả năng đánh tỉa bù.
Theo thống kê tại tỉnh Hòa Bình có tới gần trăm hộ dân làm giàu từ nghề nuôi cá ngạnh sông. Như chia sẻ của họ, chỉ cần nắm vững 4 kỹ thuật nuôi trên là bạn đã nắm trong tay bí kíp nuôi thả thành công giống cá này.
Casachsongda.com

Cách phòng trị bệnh xuất huyết do virut gây ra hiệu quả nhất ở cá chép

Tình hình thời tiết nước ta diễn biến ngày càng phức tạp, ở miền Bắc rét đậm kéo dài nhiều ngày kết hợp với mưa phùn là nguyên nhân phát sinh nhiều dịch bệnh. Đây cũng chính là cơ hội thuận cho các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, nấm, vi rút...trong môi trường nước và đáy ao nuôi phát triển, gây bệnh cho cá chép nuôi.
Cá chép là một đối tượng thủy sản nước ngọt phổ biến và truyền thống ở nước ta, do chúng có đặc điểm chất lượng thịt thơm ngon, ngoại hình đẹp và có sức chống chịu bệnh tật tốt hơn các loài cá khác. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, cá chép cũng thường mắc một số bệnh do vi rút, vi khuẩn gây thiệt hại cho người nuôi. Hai bệnh nguy hiểm nhất hiện nay đối với cá chép là xuất huyết do vi rút và bệnh do vi khuẩn. Do đó, để phòng và trị bệnh xuất huyết do vi rút ở cá chép hiệu quả, bà con nên xác định đúng nguyên nhân và thực hiện các biện pháp dưới đây.
Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh xuất huyết (đốm đỏ) ở cá chép có tác nhân gây bệnh là vi rút, sự thay đổi của môi trường và sự kết hợp giữa hai tác nhân vi rút và vi khuẩn. Bệnh có 2 dạng xuất huyết cấp tính điển hình và dạng mãn tính lở loét do vi rút Rhabdovirus carpio gây ra. Thường xuất hiện ở cá chép và nhiều loài cá trong họ cá chép, cá mè trắng.
Vi rút R.carpio có cấu trúc acid nhân là ARN và lớp vỏ là protein hình que, một đầu tròn như hình viên đạn, chiều dài từ 90 – 180nm, rộng 60 – 90nm. Loại vi rút này có 450 mung và trạng thái xốp kích thước 200nm nhưng thường giữ lớp màng 100nm. Bằng việc dùng kháng huyết thanh đã xác định được Rhabodovirus xuất hiện ở nhiều loại cá khác nhau, đây cũng là loại vi rút gây là bệnh viêm bóng hơi ở cá chép.
ca-chep-1
Cá chép bị bệnh xuất huyết do vi rút
Triệu chứng của cá khi bị bệnh
Dấu hiệu bên trong: Bụng cá chướng to, mổ ra thấy trong khoang bụng xuất huyết có dấu hiệu tích nước (phù), bóng hơi xuất huyết và teo dần một ngăn, tim, gan, thận, lá lách sưng to, ruột xuất huyết và khoang bụng có chứa nhiều dịch nhờn.
Bệnh xuất huyết do vi rút gây ra thường xuất hiện vào mùa xuân và mùa thu. Bệnh phát rất nhanh (cấp tính), tỷ lệ cá chết cao. Khi kiểm tra bên ngoài không có vi khuẩn và có các dấu hiệu bệnh thì chứng tỏ đây là vi rút. Bệnh này thường gặp ở cá chép và gây bệnh từ cá giống đến cá thịt.
Cá chép khi bị bệnh thì dấu hiệu đầu tiên là cá ngạt thở, bơi ở tầng mặt, cá mất trạng thái cân bằng và bơi không định hướng. Khi cá bị nặng thường chết chìm ở tầng đáy.
Dấu hiệu bên ngoài: Khi cá bị bệnh, mang và da cá xuất huyết và có thể ở cả mắt. Quan sát thấy da cá chép có màu tối, những vị trí viêm có nhiều chất nhầy, mang nhợt nhạt, mắt lồi nhẹ và các tơ mang dính kết lại với nhau. Ngoài ra, cá mắc bệnh này ở hậu môn máu loãng chảy ra.
ca-chep-3
Dấu hiệu bệnh xuất huyết ở cá chép
Cách phòng trị bệnh
Biện pháp phòng bệnh xuất huyết do vi rút ở cá chép hiệu quả nhất là nuôi cá ở nhiệt độ cao hơn 20 độ C. Bởi khi nhiệt độ lạnh và thay đổi là tác nhân giúp bệnh phát triển (bệnh vi rút mùa xuân). Vì vậy, khi tiến hành phòng bệnh cho cá, chúng ta có thể nuôi cá ở những vùng nước ấm, như vậy tác nhân gây bệnh sẽ ít xuất hiện.
Bên cạnh đó, bà con hãy phòng bệnh bằng cách chọn những con giống tốt có sức đề kháng với bệnh xuất huyết do vi rút ở cá chép. Tuy nhiên, cách này không thực hiện đại trà được. Năm 1962, Liên xô cũ đã có chương trình chọn giống cá chép nuôi giữa cá có sức đề kháng với bệnh và cá dễ mắc bệnh chênh lệch nhau khoảng 30%.
ca-chep-2
Phòng bệnh cho cá bằng cách nuôi ở môi trường nước ấm
Biện pháp điều trị bệnh
Thực tế cho thấy, việc phòng và chữa trị bệnh đối với bất kỳ một bệnh vi rút ở cá nào bằng hóa chất đều không mang lại kết quả cao hoặc gần như không có tác dụng. Biện pháp phòng bệnh bằng miễn dịch có thể cho kết quả tốt hơn và đã thực hiện cho bệnh xuất huyết do vi rút ở cá chép, nhưng xét về mặt kinh tế biện pháp này chưa đáp ứng được do giá thành cao và trong ao nuôi cá giống kho thực hiện được.
Để hạn chế bệnh này cũng như mang lại năng suất cao trong quá trình nuôi cá chép thì ngay từ bước chuẩn bị nuôi, bà con nên có các biện pháp phòng bệnh chung cho cá.

Phát triển mô hình nuôi cá rô phi gắn liền với tiêu thụ

Cá rô phi đơn tính dòng đường nghiệp được xác định là một trong 4 đối tượng thủy sản nuôi chủ lực trong cơ cấu nuôi trồng thủy sản. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, kinh nghiệm nuôi trồng cùng vói cơ sở hạ tầng phụ vụ chế biến chất lượng cao, nên Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển mô hình nuôi cá rô phi và chế biến xuất khẩu dòng cá này.
Tiềm năng phát triển cá rô phi lớn
Theo Tổng cục thủy sản, năm 2015 diện tích nuôi cá rô phi của nước ta đạt 16.000 ha, nuôi trong lồng bè hơn 410.000 m3, ước tính sản lượng trung bình đạt 125.000 tấn, tăng gần 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Chính vì vậy, tại thị trường Việt Nam cũng như quốc tế, cá rô phi có thị trương tiêu thụ tốt và là ngành hàng chủ lực trong xuất nhập khẩu thủy sản, góp phần ổn định cũng nhu tái cơ cấu nền kinh tế. Qua nhiều năm phát triển mô hình nuôi cá rô phi trên diện rộng, doanh nghiệp cũng như nông dân đã có nhiều kinh nghiệm trong việc nuôi đối tượng này. Các nhà máy chế biến nông sản có thể sử dụng cá rô phi làm nguồn hàng cung cấp ra thị trường nước ngoài. Hon nữa, với địa thế tự nhiên được bao bọc bởi hệ thống các con sông lớn, các ngư dân có thể phát triển mô hình nuôi cá rô phi không chỉ ở các ao nước ngọt mà còn có thể nuôi ở môi trường nước lợ cho sản lượng thịt cao hơn. Điểm này khác biệt so với mô hình chăn nuôi của Trung Quốc khi chỉ tập trung nuôi cá rô phi trong môi trường nước ngọt.
Sản lượng kim ngạch xuất nhập khẩu cá rô phi tăng cao
Việt Nam là một nước nông nghiệp, vì thế nhiều năm qua chúng ta luôn tự hào về những con số kim ngạch trong xuất khẩu nông – lâm – thủy sản, nhiều mặt hàng đã có mặt tại các thị trưởng quốc tế lớn mạnh như Mỹ, EU và nhanh chóng có tên trong CLB “tỷ đô” các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực. Tuy nhiên, để tránh trường hợp phát triển nóng cá rô phi dẫn đến mất kiểm soát, không gắn vói nhu cầu thị trường làm cho sản xuất cá rô phi kém bền vững thì ngay bây giờ cần kiểm soát chặt chẽ các khâu từ con giống, chăm sóc đến chế biến thương phẩm.
Những năm gần đây, cá rô phi đơn tính được xuất khẩu sang nhiều thị trường quốc tế, tiêu biểu là Mỹ, EU,.. tăng bình quân 15 – 20 %, trong đó Mỹ là thị trường tiêu thụ lượng cá rô phi lớn nhất với giá trị nhập khẩu trong năm 2015 lên tới 1,1 tỷ USD. Nhu cầu tiêu thụ cá rô phi trên thế giới tăng mạnh cũng là nguyên nhân khiến giá cá rô phi tăng cao: năm 2009 chỉ 3,5 tỷ USD / kg, thì sang năm 2015 đã lên đến 4,5 tỷ USD/kg. Mặc dù có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển, nhưng việc nuôi cá rô phi đơn tính ở nước ta vẫn  còn gặp nhiều khó khăn: đầu tiên là vấn đề nguồn giống chưa được đáp ứng đầy đủ, số lượng con giống đạt chuẩn đang thiếu hụt, nguồn giống ngoại lai nhập khẩu chưa được kiểm tra xuất xứ. Thứ hai là vấn đề thị trường tiếp cận với quốc tế còn chậm, do Việt Nam là nước đi sau trong việc phát triển mô hình cá rô phi nên phải cạnh tranh với các nước lớn, khó khăn trong việc xuất khẩu.
Nuôi cá rô phi trong vùng quy hoạch chuẩn
ca-ro-phi-minh-phu
Xuất khẩu cá rô phi tăng cao nhưng chịu sự cạnh tranh của thị trường quốc tế
Nhiệm vụ trọng tâm trước mắt được xác định là nguồn giống để sản xuất cá rô phi thương phẩm cần được nghiên cứu, chọn tạo kĩ lưỡng. Cá bố cá mẹ cần được tuyển chọn từ những giống tốt, khỏe mạnh, khả năng sinh sản cao. Đồng thời có những định hướng để các địa phương phát triển vùng nuôi cá rô phi tập trung, gắn liền với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu để sản xuất cá rô phi phù hợp với tính chất của thị trường tiêu thụ. Tại các Trung tâm nhân giống, cần chủ động lai tạo ra các con giống chất lượng, với số lượng lớn để cung cấp cho các trại nuôi, tạo chuỗi liên kết với các doanh nghiệp địa phương để tim đầu ra sau khi thu hoạch. Đồng thời, tiếp tục thực hiện công tác quản lý nuôi, chỉ đạo phát triển nuôi theo mô hình tập trung, không phát triển nuôi lồng bè tràn lan trên các dòng sông ngoài vùng quy hoạch, gây ô nhiễm môi trường và cản trở giao thông đường thủy. Phát triển phải đi đôi với tái cơ cấu ngành thủy sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, đảm bảo điều kiện vệ sinh vùng nuôi, chất lượng thịt, an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường chung và tuân thủ quy định về giao thông đường thủy, an toàn – kiên cố đê điều trong nuôi cá lồng bè.
Ngoài ra, để đảm bảo các trại nuôi quy về một mối, cần có chính sách tuyên truyền – khuyến khích các hộ nuôi cá rô phi thương phẩm áp dụng theo quy phạm nuôi trồng thủy sản VietGAP (tức là dựa vào nguồn nước sạch để nuôi cá). Các tỉnh có nghề nuôi cá trong lồng bè, tiêu biểu như Hòa Bình ần phổ biến và hướng dẫn chi tiết kỹ thuật nuôi, chăm sóc, phòng bệnh từ kiên cố đê điều, phương pháp nhân giống đến kỹ thuật nuôi cá rô phi thương phẩm,.. để người dân có kiến thức phòng tránh, khắc phục những rủi ro không đáng có.
Nâng cao hình thức liên kết “bốn nhà” trong tiêu thụ nông sản
Để tránh tình trạng được mùa mất giá, cần nâng cao hơn nữa sự liên kết giữa bốn nhà: Nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp và nhà nông là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề này đã được đặt ra trong các hội nghị về tiêu thụ nông sản với chủ đề “Liên kết từ sản xuất đến thị trường”. Thời gian vừa qua, vấn đề tiêu thụ nông sản đặc biệt là cá đang suy giảm. Ngoài những nguyên nhân do biến động trên thị trường thế giới, nguồn cung tăng cao do sự tham gia cung cấp sản phẩm từ nhiều thị trường, sự liên kết từ khâu sản xuất, nghiên cứu thị trường đến tiêu thụ sản phẩm cũng chưa được đồng bộ, dẫn đến khó khăn trong việc xuất nhập khẩu. Sự phối hợp tổng thể giữa “bốn nhà” còn đứt đoạn, việc trao đổi thông tin còn nhiều yếu kém. Việc thiếu liên kết giữa doanh nghiệp và nơi trực tiếp sản xuất dẫn đến hàng loạt những khó khăn trong tiêu thụ ngành thủy sản, điển hỉnh là kim ngạch xuất khẩu cá rô phi giảm mạnh trong năm vừa qua.
cá rô phi đường nghiệp
Xây dựng liên kết "4 nhà" trong tiêu thụ cá rô phi 
Để khắc phục được vướng mắc trên, các cơ quan quản lý nhà nuóc cần thường xuyên trao đổi thông tin diễn biến trên thị trường, khả năng cân đối giữa lượng cung & cầu các mặt hàng thủy sản, đồng thời phát triển hệ thống thương mại nội địa nhất là hệ thống phân phối, lưu thông giúp tiêu thụ tốt hơn. Ở các trang trại nuôi trồng thủy sản, đối với cá rô phi cần xác định rõ đây là nguồn hàng chủ lực chính để xuất khẩu, cần nghiên cứu, dự báo cũng như phân tích thị trường tiêu thụ cá trên địa bàn là bao nhiêu, chất lượng cần có như thế nào, thậm chí giá theo từng giai đoạn để có định hướng trong việc chăm sóc và nuôi trồng. Thiết lập và hợp tác với các doanh nghiệp chế biến để tạo chuỗi liên kết từ khâu sản xuất – chế biến – tiêu thụ sản phẩm.
Hướng làm giàu mới từ nuôi cá rô phi đơn tính dòng đường nghiệp
Hiện nay, cá rô phi đơn tính dòng đường nghiệp đang được nuôi tại một số tỉnh phía Bắc nước ta tiêu biểu như tỉnh Hòa Bình, Bắc Giang,.. và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân.
Đây là loài cá có sức đề kháng tốt, khả năng thích ứng cao nên phù hợp với nhiều môi trường nuôi: ao hồ (ao đất, ao lót bạc), nuôi lồng bè đều đạt khả năng tăng trưởng tốt. Trong điều kiện nuôi thâm canh, cá phát triển rất nhanh và cho chất lượng thịt đồng đều; sau 4 – 5 tháng trọng lượng trung bình có thể đạt 0,8 – 1,2 kg/con, thậm chí có con có thể đạt trọng lượng 4 kg, với giá bán hiện nay trên thị trường là 80.000 đồng/con. Loài cá này ăn tạp lớn nhanh, khi chế biến thịt chắc chắn, dày mình, ít xương dăm, mùi vị thơm và ngọt tự nhiên, nếu so với các dòng thương phẩm khác cá có thể đạt fillet 40 trong kim ngạch xuất khẩu. Cá rô phi đơn tính dòng đường nghiệp được lai tạo từ cá rô phi Philipin và Thái Lan nên có ngoại hình ưu Việt, có sự tăng trưởng tốt và ít tiêu tốn thức ăn hơn so với các giống cá rô phi khác và đã được khẳng định trên thị trường quốc tế. Hiện nay, cá được nuôi tại một số địa phương như Hòa Bình, Hải Dương, Thái Bình,.. và xuất khẩu sang 1 số nước lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản,…


Casachsongda.com

Bệnh kênh mang ở cá chép giống và biện pháp phòng trị bệnh hiệu quả

Cá chép khi ở giai đoạn cá chép giống và cá hương thường hay bị bệnh kênh mang dẫn tới chết với số lượng lớn và gây thiệt hại không nhỏ cho người nuôi. Để giảm thiểu thiệt hại về kinh tế và mang lại hiệu quả cao, trước và trong khi nuôi bà con nên tìm hiểu nguyên nhân và có các biện pháp phòng trị bệnh.
Cá chép là một trong những đối tượng cá nước ngọt được nuôi phổ biến trong các ao, hồ, ruộng hay lồng bè. Thịt cá chép rất thơm ngon nên được nhiều người ưa chuộng và đưa vào nuôi trồng. Tuy nhiên, trong quá trình ương nuôi cá chép hương lên cá chép giống đã gặp nhiều trở ngại do dịch bệnh, đặc biệt là bệnh kênh mang. Đây là một bệnh lây truyền giữa người, gia súc, gia cầm và cá do ấu trùng sán lá Centrocestus fomorsanus gây ra. Do ấu trùng sán nằm trong bọc bởi các bao nang nên hầu hết các hóa chất thường dùng để diệt ký sinh trùng cá như sulphat, muối ăn, formaline, thuốc tím, thậm chí cả hóa chất cấm như xanh malachine đều không hiệu quả. Vì vậy, để điều trị bệnh cho cá, mang lại hiệu quả cao bà con phải xác định được nguyên nhân gây bệnh và từ đó có biện pháp phòng trị hiệu quả như dưới đây.
Tác nhân gây bệnh kênh mang ở cá chép
Ấu trùng (Metcercaria) của sán lá song chủ Centrocestus formosanus (Nishigori, 1924) ký sinh ở mang cá. Bào nang hình ovan, kích thước 0,16 - 0,23 x 0,125 - 0,178 mm.
Cá chép khi ở giai đoạn nhỏ thường bị bệnh kênh mang, chủ yếu do hai tác nhân chính gây ra là thích bào tử trùng Myxobolus sp và ấu trùng sán lá Centrocestus formosanus.
Thích bào tử trùng gây bệnh ở cá chép là các loài thuộc giống bào tử sợi Myxobolus (Biitschli,1882). Đặc điểm riêng của nó là phía trước bào tử có 2 cực nang, thường các loài có 2 cực nang bằng nhau và một số ít loài có 1 cực nang bị thoái hóa (Myxobolus toyamai).
ca-chep-2
Ấu trùng sán gây bệnh kênh mang ở cá chép
Biểu hiện của bệnh
Cá chép khi bị kênh mang thường có các biểu hiện chung như: Cá bơi lờ đờ ở tầng mặt gần bờ, không có phản ứng với tiếng động, cá có hiện tượng nắp mang hở, không khép kín. Sau đó, cá chết nổi lên bờ và chết nhiều vào những ngày thời tiết thay đổi ở những ao ương dày.
Cá mắc bệnh do nhiễm ấu trùng sán C. formosanus: Ấu trùng sán ký sinh nằm sâu trong tơ mang tạo thành bọc, tập trung nhiều ở gốc và trên tơ mang, làm tơ mang bị biến dạng. Khi nhiễm ấu trùng ở cường độ cao, mang cá sưng lên, trương phồng, nắp mang không thể đậy kín các phiến mang và ảnh hưởng đến hô hấp của cá nhưng mang vẫn có màu hồng tươi. Bệnh thường xảy ra ở cá chép hương 2 tuần tuổi đến cá giống nhỏ < 10 g/con. Khi bị bệnh, tốc độ sinh trưởng chung của cá so với các ao cùng ương giảm khoảng 30 - 50% .
Do thích bào tử trùng Myxobolus sp.: Sợi thích ty cắm vào và xâm nhập tổ chức mang. Trong quá trình xâm nhập, sợi thích bào tử trùng tiếp tục sinh sản cho đến khi tạo ra các khối u màu trắng to bằng hạt tấm, hạt gạo có thể quan sát bằng mắt thường trên mang cá. Bệnh này thường xuất hiện ở cá chép giống cỡ 5 - 50 g/con.
cá chép
Dấu hiệu bệnh kênh mang ở cá chép
Biện pháp phòng bệnh tổng hợp
Bệnh kênh mang ở cá chép do ấu trùng sán ký sinh ở mang cá được bao bọc bởi vỏ bào nang dày, còn thích bào tử trùng lại được nằm trong lớp kitin dày rất khó phá vỡ. Vì vậy, các loại hóa chất thông thường như CuSO4, Formalin, KMnO4 không thể diệt được…Để phòng bệnh cho cá chỉ tiến hành tổng hợp các biện pháp gồm vệ sinh trang trại, hệ thống lồng lưới, bể, ao ương sau mỗi vụ nuôi và trước khi đưa vào vụ nuôi mới. Bên cạnh đó, cần ương nuôi cá với mật độ phù hợp, cho cá ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, thức ăn tươi sống phải được khử trùng để tăng cường miễn dịch cho cá nuôi. Ngoài ra, người nuôi nên dùng Chlorine để sát trùng, diệt ký chủ của kí sinh trùng có thể gây bệnh và trong quá trình nuôi cần tránh xây xát trong quá trình san thưa, tránh gây sốc và chuyển bể hoặc phân cỡ cá.
ca-chep-1
Ương nuôi cá chép với mật độ thích hợp
Biện pháp điều trị bệnh
Kết quả nghiên cứu của Ts. Kim Văn Vạn và cộng sự năm 2012, khi cá chép bị bệnh kênh mang do nhiễm ấu trùng sán, có thể dùng Praziquatel với liều lượng 50 - 75 mg/kg thức ăn, cho ăn liên tục 3 - 5 ngày và cho ăn 10 - 15% trọng lượng cơ thể để tiêu diệt các ấu trùng, giúp cá sẽ khỏe lại.
Do thuốc Praziquatel có mùi đặc trưng nên khi trộn vào thức ăn với liều cao thì cá chép không ăn thức ăn nên hiệu quả điều trị kém. Vì vậy, để có hiệu quả trong 1 - 2 ngày đầu bà con hãy trộn thuốc với liều lượng ít sau đó tăng dần. Đồng thời, để dùng thuốc cho cá hiệu quả hơn, cần bảo thức ăn bằng dầu hoặc chất bao.
Người nuôi muốn đều trị bệnh kênh mang do thích bào tử trùng gây ra có thể trộn thuốc tỏi hoặc Sulfadiazine cho cá chép ăn. Chọn các sản phẩm có thành phần là Sulfadiazine lượng 1 lít/500 - 700 kg thức ăn và cho ăn liên tục trong 5 - 7 ngày thì cá sẽ hết bệnh.
Trong khi điều trị bệnh cho cá chép cũng cần lưu ý, nên cho cá ăn vào buổi sáng để đạt hiệu quả tốt nhất. Bên cạnh đó, ngay từ khâu chọn giống, bà con nên chọn những trung tâm cung cấp giống lâu năm và uy tín như Thủy sản Minh Phú để đảm bảo giống cá không mầm bệnh và khỏe mạnh.

Tiêu chuẩn lựa chọn cá giống chất lượng – cá chép V1

Cá chép V1 là đối tượng nuôi truyền thống của nghề nuôi cá nước ngọt ở Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian gần đây dịch bệnh đã gây thiệt hại lớn cho nghề nuôi cá chép. Vì vậy, vấn đề kỹ thuật nuôi, quản lý môi trường, dịch bệnh là cần thiết và cấp bách, đòi hỏi người nuôi cá có những hiểu biết về chuẩn bị lồng bè nuôi, chọn và thả cá giống, quản lý dịch bệnh và lồng bè nuôi cá để nâng cao năng suất nuôi và phát triển bền vững nghề nuôi cá chép.
Tầm quan trọng của chất lượng cá giống trong nuôi trồng thủy sản
Chất lượng cá giống là một yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa rất lớn quyết định đến hiệu quả của nghề nuôi cá. Chất lượng cá giống tốt như:
- Cá khỏe mạnh, sức đề kháng tốt, ít bệnh tật và chi phí phòng trị bệnh thấp.
- Cá nhanh lớn, đúng kế hoạch.
- Cá hấp thu thức ăn tốt và hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp.
- Chăm sóc, quản lý cá giống trong quá trình nuôi dễ dàng, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Để chọn được những con cá giống tốt phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, vì vậy trước khi chọn mua, bà con cần biết chính xác chất lượng cá giống để lựa chọn sao cho phù hợp như: chất lượng đàn cá bố mẹ, kỹ thuật sinh sản, kỹ thuật ương nuôi từ cá bột lên cá hương và từ cá hương lên cá giống.
ca-giong-2
Chọn những con cá giống khỏe mạnh, không dịch bệnh
Tuy nhiên, trong quá trình ương từ cá bột lên cá giống, đàn cá có thể bị bệnh, phải sử dụng thuốc kháng sinh và các hóa dược khác đưa vào cơ thể nhiều, thường xuyên làm cho đàn cá chậm lớn hoặc không lớn được. Ngoài ra, môi trường ao nuôi biến đổi xấu, phải sử dụng hóa chất để xử lý làm cá bị sốc, giảm ăn hoặc bỏ ăn; cho cá giống ăn thiếu thường xuyên và kéo dài. Không trị triệt để bệnh, mầm bệnh và mật độ ương cao dẫn đến tình trạng đàn cá giống không đạt đúng kích thước quy định theo tgian phát triển hoặc đạt tiêu chuẩn kích cỡ cá giống nhưng thời gian ương nuôi lâu hơn bình thường, gọi là “cá còi”. Bà con khi mua phải đàn cá này về nuôi, khả năng mang lại hiệu quả kinh tế không cao.
Cách vận chuyển cá giống
Vận chuyển cá cũng ảnh hưởng đến chất lượng cá giống, đó là thời gian vận chuyển kéo dài, mật độ vận chuyển cá cao làm giảm chất lượng cá.
ca-giong-1
Vận chuyển cá giống
Tiêu chuẩn cá giống khi chọn mua
Tiêu chuẩn chọn giống cá chép V1 dựa trên quy định những chỉ tiêu chất lượng của cá chép giống V1, được áp dụng cho các cơ sở sản xuất và nuôi thương phẩm cá chép V1 trong phạm vi cả nước.
Về yêu cầu kỹ thuật
- Cỡ cá: Giai đoạn từ 150 – 250; chiều dài cá (mm) từ 100 – 300; khối lượng cá giống 90g và thời gian nuôi khoảng 120 ngày.
- Màu sắc: Chọn những con cá có màu vàng da cam nhạt.
- Ngoại hình: Toàn thân phủ kín vẩy, trơn nhẵn, không xây xát và không dị hình dị dạng.
- Trạng thái hoạt động bình thường, bơi chìm trong nước theo đàn.
Để biết chính xác cá có bị mắc một số bệnh như trùng ký sinh, cơ thể cá gầy yếu, dị hình hay không, người nuôi cần có các bước kiểm tra cá. Dùng vợt, thước đo có chia vạch chính xác đến mm, cân kỹ thuật, xô (chậu), bát sứ trắng hoặc nhựa rồi tiến hành vớt cá để lấy mẫu kiểm tra.
ca-giong-3
Cá giống đạt được những yêu cầu về kỹ thuật
Cách kiểm tra cá
Dùng vợt cá lấy ngẫu nhiên khoảng 20 – 30 cá thể từ giai chứa thả vào dụng cụ chứa nước sạch. Lấy 3 mẫu, mỗi mẫu khoảng 10 – 20 con cá giống. Tiếp đó, kiểm tra các chỉ tiêu về ngoại hình, màu sắc, trạng thái hoạt động của cá.
Quan sát trực tiếp cá trong chậu (xô) ở điều kiện ánh sáng tự nhiên. Sau đó, đánh giá về ngoại hình, màu sắc và trạng thái hoạt động của cá bột, cá hương và cá giống theo quy định.
 Khối lượng: Đặt chậu (xô) đã chứa 3 – 5 lít nước sạch lên đĩa cân để xác định khối lượng của chậu và nước, dùng vợt bắt cá trong giai chứa và để chảy vừa hết nước trong vợt thì đổ cá vào chậu nước đã cân. Sau đó, xác định khối lượng của chậu nước và cá bằng cách đếm số cá thể trong mẫu cân để tính khối lượng trung bình của cá. Tiến hành cân 3 lần rồi lấy giá trị trung bình.
Chất lượng cá giống phải có 80% số cá kiểm tra đạt khối lượng theo yêu cầu.
- Về chiều dài cá: Vớt hơn 30 cá thể và lần lượt đo toàn chiều dài từng cá thể. Đối với cá giống nuôi, phải có ít nhất 80% số cá kiểm tra đạt chiều dài theo quy định.
Để nghề nuôi cá chép đạt hiệu quả kinh tế cao, ngay từ bước chọn cá giống bà con nên kiểm tra thật kỹ. Ngoài ra, trong quá trình nuôi nên có các bước chăm sóc và kiểm tra ao, lồng bè nuôi thường xuyên để kịp thời xử lý nếu có dịch bệnh xảy ra.

Lan tỏa những mô hình ươm cá giống – Nông dân làm giàu

Trong những năm qua, Trung tâm Khuyến nông – khuyến ngư đã phát huy tốt vai trò cầu nối chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật đến với người nông dân, nhất là đưa các con cá giống mới được khảo nghiệm, tuyển chọn vào nuôi trồng, những mô hình ươm cá giống mới đã góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp đạt hiệu quả cao mang lại nguồn thu nhập lớn cho bà con nông dân.
Làm giàu từ nghề ươm cá giống THỦY SẢN MINH PHÚ
Năm 2016 được coi là một năm đầy biến động của ngành nuôi trồng thủy sản khi liên tiếp chịu ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu toàn cầu dẫn đến hạn hán kéo dài, hiện tượng xâm nhập mặn tràn lan; nhất là tình hình mưa lũ trên diện rộng đa gây thiệt hại không nhỏ đến việc chăn nuôi cá, tôm và các chủng loại thủy sản. Trước những khó khăn chung của toàn ngành, Trung tâm khuyến ngư đã đưa ra các đề án trong việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đặc biệt là xây dựng mô hình ươm cá giống theo tiêu chuẩn VietGAP hay mô hình liên kết nuôi cá rô phi theo VietGAP gắn với tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ xây dựng mô hình nuôi cá thâm canh đạt chứng nhận VietGAP; phát triển mô hình sản xuất cá giống trên diện rộng để chủ động nguyên liệu cho nuôi trồng thủy sản.
Mô hình ươm cá giống trọng điểm tại Hòa Bình
Mô hình ươm cá giống trọng điểm tại Hòa Bình
Hiện nay, nhiều hộ dân ở khu vực Hồ Thủy điện Hòa Bình trở nên khá giả hơn nhờ nghề ươm cá giống với các chủng loại như cá rô phi đường nghiệp, cá quả hoa, cá diêu hồng, cá lăng,.. Tiêu biểu như mô hình ươm cá giống tại 30 hệ thống lồng bè của Trung tâm Thủy sản Minh Phú, cung cấp số lượng con giống lớn. Theo các chuyên gia của Trung tâm: nghề ương cá giống rất khó, từ việc ghép lai tạo giữa cá bố mẹ, tuyển chọn cá giống mẹ đến không gian ươm giống. Ngành nuôi trồng thủy sản của nước ta còn manh mún, nhỏ lẻ, số hộ và doanh nghiệp sản xuất cá giống hay hợp tác xã nuôi quy mô bài bản chưa nhiều. Bên cạnh đó, việc quản lý chất lượng nguồn cá chưa được sát sao, các sản phẩm thuốc thú y thủy sản, chế phẩm sinh học, chất xử lý cải tạo môi trường còn nhiều bất cập nên gây thiệt hại cho người nuôi thủy sản.
Để có đàn cá giống tốt phục vụ cho nuôi thương phẩm, cần đặc biệt chú trọng đến khâu ương nuôi cá giống từ giai đoạn cá bột cho tới bán cá giống.
Chuẩn bị ao ương cá giống
Ao ương cá giống cần có diện tích từ 500 – 100 m2, có dạng hình chữ nhật. Vét sạch bùn ở đáy ao, độ bùn dưới đáy ao nên là đất cá pha dày khoảng 15cm. Riêng đối với cá trắm cỏ thì không cần để đáy ao vì không phải gây nước tạo màu đối với giống cá này. Hệ thống cấp thoát nước phải thông thoáng, bờ ao xây dựng thành tường kiên cố. Sau khi vét sạch bùn ở đáy ao, tiến hành rắc vôi bột xung quanh bờ ao với liều lượng từ 7 – 10 kg vôi bột/100m2. Nước cấp vào ao phải là nguồn nước sạch, truóc khi cấp vào cần sàng lọc qua tấm lưới để tránh những bụi bẩn và sinh vật tạp nham vào trong ao. Có thể tiến hành diệt khuẩn bằng Chlorine với liều lượng 3g/m3 nước. Sau khi khử khuẩn từ 5 – 7 ngày có thể gây màu nước và tiến hành thả cá giống.
Tiến hành gây màu nước và ương cá giống THỦY SẢN MINH PHÚ
Tùy vào từng loài cá khác nhau mà tiến hành gây màu nước cho cá, đối với các loại cá chép, cá rô phi,.. việc tiến hành gây màu nước sẽ tạo nguôn thức ăn tự nhiên cho cá trong quá trình sinh trưởng. Cách gây màu nước tốt nhất hiện nay là sử dụng phân đạm, lân với liều lượng từ 100 – 200g/100m3 nước theo tỷ lệ N:P là 2:1, nên bón khi trời nắng để phân lân, đạm được rải đều khắp mặt ao, quan sát khi nước chuyển sang màu xanh là có thể thả cá bột xuống ương. Ở giai đoạn cá bột, thức ăn cho cá chủ yếu là gạo cám xay nhỏ để cá dễ ăn. Giai đoạn thứ 2, khi cả tăng về mặt kích cỡ lên đến 5 hoặc 6 cm có thể cho ăn thức ăn của loài như các loại rau cỏ, cá nhỏ hay cám viên công nghiệp. Cá giống được ương trong ao lên duy trì mật độ từ 3.500 – 4000 con/m2, có thể nuôi đan xe với các loại cá khác theo tỷ lệ 7:3. Trong trường hợp nếu cá giống có kích cỡ từ 6cm trở lên, nên giảm mật độ ương cá xuống khoảng 1.500 – 2000 con/m2.
Bón vôi xung quanh bờ ao để khử trùng ao nuôi
Bón vôi xung quanh bờ ao để khử trùng ao nuôi
Chăm sóc cá giống trong ao
Trong quá trình nuôi cá giống 1 ngày cho ăn ít nhất 2 lần vào sáng sớm và chiều tối, tránh cho ăn khi trời đang nắng. Đặc biệt, cá là loài động vật ăn tạp, thường kiếm mồi vào ban đêm lên buổi chiều tăng lượng thức ăn lên gấp đôi so với buổi sáng đáp ứng cho nhu cầu sinh trưởng của cá. Cũng tùy vào đặc điểm sinh trưởng của từng loại cá mà phương pháp, liều lượng cho ăn khác nhau:
+ Đối với cá chép: khi cá giống từ 2 cm phát triển lên 8 – 10 cm, có thể sử dụng nguồn thức ăn nhân tạo cho cá ăn, với trọng lượng 4 kg/10.000 con/ngày trong 2 tuần đầu tiên và ở các tuần tiếp theo phụ thuộc vào sự tăng trưởng kích thước của cá mà hàm lượng thức ăn được tăng lên. Nguồn thức ăn từ tự nhiên như cám gạo hay thực phẩm xanh từ rau cỏ rất tốt cho quá trình ương cá giống, bà con lên tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên từ các đồng cỏ hay có ngay trong ao hồ để quá trình nuôi cá giống thương phẩm đạt chất lượng cao.
+ Đối với cá trắm cỏ: thức ăn chủ yếu của chúng là thực vật, các loại rau, bèo, hay hàm lượng tinh bột từ bã đậu, cám gạo. Lượng cho ăn từ 40 – 60 kg/10.000 con/ngày, cho kích thước cá bột khoảng 10 – 12 cm. Bà con cần thường xuyên kiểm tra gây màu nước để đảm bảo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá.
Thường xuyên theo dõi cá nổi đầu vào buổi sáng sớm để kịp thời khắc phục. Trong quá trình nuôi giống, tiến hành phòng bệnh cho cá bằng cách bổ sung dinh dưỡng vào thức ăn cho cá giống, định kỳ dùng vôi bột với liều lượng từ 2 – 6 kg vôi bột/00m3 nước, hòa vào với nguồn nước sạch rồi té xung quanh ao 2 tuần/lần. Với phân chuồng, cần ủ với vôi liều lượng từ 5 – 7 kg/100 phân trong vòng 20 phút trước khi bón xuống ao cá giống.
ca-ro-phi-minh-phu
Liên kết với các daonh nghiệp trong việc tiêu thụ thương phẩm cá giống và cá thịt
Thành công trong việc nhân giống chưa đủ bởi yếu tố quyết định vẫn là thị trường tiêu thụ. Nhiều hộ sản xuất lớn, nhưng không xuất khẩu được làm nguồn vốn tồn đọng lớn ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng như mương cấp, mương thoát,.. cần tuân thủ đầy đủ kỹ thuật trong chăm sóc nuôi trồng, cấp thoát nước thường xuyên, thông thoáng và đảm bảo nguồn nước sạch. Chính vì vậy, Trung tâm thủy sản Minh Phú thời gian tới tiếp tục tập trung xây dựng các mô hình an toàn thực phẩm, an toàn dịch bệnh gắn liền với tiêu thụ sản phẩm, tạo đầu ra bền vững. Mục tiêu trước mắt là tăng thu nhập cho ngu dân bản địa, kết hợp với bảo vệ môi trường và xây dựng nông thôn mới. Trong quá trình triển khai xây dựng mô hình, trung tâm sẽ tiến hành đồng bộ với chương trình đào tạo chuyển giao và đa dạng hình thức thông tin tuyên truyền để “một người làm hàng nghìn người học tập” giúp bà con sớm làm giàu từ nghề nuôi trồng thủy sản.
Trong năm 2016, nhiều mô hình ươm cá giống trong nuôi trồng thủy sản thành công, cho con giống khỏe mạnh, sử dụng hoàn toàn thức ăn tự nhiên, không thuốc kháng sinh, chất cấm. Tiêu biểu như mô hình nhân giống cá rô phi đường nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP của Trung tâm Thủy sản Minh Phú với 30 hệ thống lồng bè đuọc đặt giữa lòng hồ thủy điện Hòa Bình. Mô hình uom giống cá rô phi tại đây được triển khai trên địa bàn các xã quanh khu vực thủy điện, tiến hành phương pháp sản xuất giống hoàn toàn tự nhiên, khong mầm dịch bệnh, cung cấp nguồn giống cho toàn tỉnh và được Sở cấp giấy chứng nhận AT vệ sinh trong nuôi trồng. Sản phẩm cá rô phi nuôi thương phẩm không chỉ được người tiêu dùng trong nước ua chuộng và còn được xuất khẩu sang thị trường quốc tế, tiêu biểu như Mỹ hay các nước EU,.. Cũng phải nói thêm rằng, từ năm 2012 đến nay, Trung tâm Thủy sản Minh Phú đã triển khai xây dựng mô hình sản xuất cá giống và cá thịt theo tiêu chuẩn VietGAP mang lại hiệu quả kinh tế cao, với tỷ lệ cá bị dịch bệnh thấp chỉ xấp xỉ 2% và số hộ thiệt hại chỉ có 1,7 %.  Đây là bước đột phá mới trong việc nuôi trồng thủy sản trên diện rộng, trong khi đó các ngư dân không theo mô hình VietGAP tỷ lệ thành công – thất bại là 6/4.

Lưu ý: Để đảm bảo cá giống ít bị hao hụt khi vận chuyển xa, cần luyện ép cá bằng cách dùng trà gai, cào tre kéo khắp ao làm cho ao sục bùn hoặc dùng lưới kéo cá dồn lại góc ao khoảng 0 – 30 phút rồi lại thả ra, làm liên tục trong 1 tuần trước khi vận chuyển cá.
Casachsongda.com

Hốt bạc từ mô hình nuôi cá lăng đen trong ao nước chảy

Nuôi cá trong ao nước chảy còn được gọi là nuôi cá thay nước. Hình thức nuôi này sử dụng cả 2 phương pháp sinh lý và sinh thái để nâng cao năng suất ao nuôi trên 1 đơn vị thể tích nước. Áp dụng mô hình trong hoạt động nuôi thả giống cá lăng đen vừa giúp tiết kiệm diện tích nuôi trồng, vừa giúp tăng lợi nhuận tối đa cho bà con nông dân.
 Nhằm mục đích giúp bà con tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm trong nuôi trồng thủy sản, Trung tâm thủy sản Minh Phú xin chia sẻ về kỹ thuật nuôi thả giống cá lăng đen trong ao nước chảy cho vụ cá bội thu.
1-Các biện pháp kỹ thuật trong mô hình nuôi cá lăng đen - THỦY SẢN MINH PHÚ
nuoi-ca-ao-chay-1Cần dọn bùn trong ao trước khi thả cá
Trong mô hình nuôi cá lăng đen trong ao nước chảy, bà con nên lợi dụng địa hình để tập trung tiến hành đào ao nuôi ở các hệ thống sông suối, kênh rạch, mương thủy lợi … Tùy theo nguồn nước cung cấp cho ao nhiều hay ít, khả năng cung cấp thức ăn mà xác định diện tích ao, thường ao nuôi không nên rộng quá 1000m2. Chiều dài ao gấp chiều rộng từ 2-5 lần, nước được bố trí chảy theo chiều dài ao. Độ sâu của ao từ 1-1,2m, bờ cao hơn mực nước từ 0,7 – 1m, nước cấp vào ao phải sạch, lượng oxy đầu vào phải từ 5mg/l trở nên, PH từ 7-8, nhiệt độ nước dao động trong khoảng 20-30°C. Đối với ao nuôi đã sử dụng nuôi cá nhiều năm cần phải tẩy dọn ao trước khi đưa vào nuôi vụ mới.
2-Thả cá giống
Giống cá lăng đen cần phải đảm bảo đúng yêu cầu về chất lượng và số lượng. Ngoài tiêu chuẩn về chiều dài, cá phải khỏe mạnh, không bị bệnh, không bị dị hình, và phải đồng đều về kích cỡ. Mật độ thả cá thích hợp từ 4-5con/m2.
Thời vụ thả cá giống hầu như quanh năm, riêng các tỉnh miền núi thường thả cá vào ao sau mùa mưa bão để tránh lũ quét, quá trình thả cá lăng đen phải được tiến hành ngắn gọn. Một số ao chỉ có nước chảy trong mùa mưa nên cần chú ý thời điểm và kích cỡ cá giống thả sao cho phù hợp.
3-Thức ăn và phương pháp cho ănnuoi-ca-ao-chay
Lượng thức ăn phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của cá 
Thức ăn xanh bao gồm rong, bèo, rau cỏ… cho cá ăn thỏa mãn nhu cầu. Thức ăn xanh thường được bỏ trong khung để thuận lợi trong kiểm soát lượng thức ăn còn hay hết. Thức ăn tinh gồm cám gạo, bột ngô, các loại khô dầu … cần được phối trộn rồi ép viên hoặc nắm thành nắm cho cá ăn. Ở những cơ sở có điều kiện kinh tế nên dùng cám viên nổi với kích cỡ và thành phần phù hợp với loài, lứa tuổi. Đối với giai đoạn cá giống mới thả sử dụng thức ăn viên với lượng từ 5-7-10% khối lượng cá/ngày, đối với cá lăng đen ở giai đoạn trưởng thành hơn dùng 3-5% khối lượng cá/ngày.
4-Quản lý và chăm sóc
ca-lang-den-minh-phu
Cá lăng đen được nuôi đúng kỹ thuật có trọng lượng 3-4kg/con
Hàng ngày cho cá ăn thức ăn xanh gồm rong, bèo, rau cỏ. Cho ăn 2 lần/ngày, sáng và chiều. Lượng thức ăn cho cá lăng đen dao động từ 30-50% khối lượng cá (theo nhu cầu của cá). Thức ăn viên dao động từ 3-5-7% khối lượng cá/ngày. Thường xuyên theo dõi bệnh tật của cá để có biện pháp phòng trị kịp thời. Ngoài lượng nước thay hàng ngày theo quy định, phải định kỳ hàng tháng tháo đáy cống để tháo các chất bẩn ở đáy ao. Thường xuyên theo dõi tốc độ tăng trưởng và phát triển để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp cho cá lăng đen.
Nuôi cá lăng đen trong ao nước chảy đang dần phổ biến ở nhiều địa phương trên cả nước như: Hòa Bình, Tuyên Quang, Vũng Tàu … Với ưu điểm dễ thực hiện, tiết kiệm chi phí và đem lại lợi nhuận cao, áp dụng mô hình này trong nuôi trồng thủy sản sẽ giúp bà con làm giàu nhanh chóng.