Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017

Kỹ thuật ương nuôi cá bột, cá hương lên cá giống đơn giản

(Thủy sản Minh Phú) – Để có đàn giống tốt phục vụ cho nuôi thương phẩm cần đặc biệt chú trọng đến khâu ương nuôi từ giai đoạn cá bột cho tới cá giống.
  1. Yêu cầu cơ bản trong kỹ thuật ương nuôi cá giống
Cá giống có kích thước nhỏ cho nên dù ao ương có diện tích và hình thù như thế nào cũng có thể ương được nhưng bà con nên duy trì diện tích tối thiểu từ 500 – 2.000 m2, thoáng về mùa hè và ấm về mùa đông. Ao ương có hình chữ nhật, với độ sâu từ 1,2 – 1,5m để dễ dàng chăm sóc và đánh bắt khi th hoạch. Ao có đáy bùn pha cát độ dày khoảng 10 – 0 cm là vừa phải, tránh trường hợp lượng bùn quá dày đặc biệt là bùn đen, hôi tích đọng nhiều khí độc sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá giống, nếu đáy ao quá trơ cũng sẽ gây khó khăn cho việc gây màu để tạo thức ăn tự nhiên. Đối với ao ương nuôi cá giống cần chủ động được cấp thoát nguồn nước, nguồn nước được cấp vào ao nuôi cần đảm bảo chất lượng về độ pH trong khoảng 6,0 – 8,0 (tốt nhất là 6,5 – 7,5), hàm lượng oxy hòa tan dao động trong khoảng 4 – 8 mg/l và không được chứa khi độc hại như NH3, H2S,..
ca-bot-thuy-san-minh-phu
Cá bột nước ngọt các loại
Đối tượng ương nuôi
Chỉ ương nuôi những loài có đặc điểm sinh học thích ứng với môi trường, có giá trị về mặt thương phẩm. Đối với cá bột yêu cầu bà con không ương cá quá non bởi vì cá bột có noãn hoàng chưa tiêu hết, cá nặng bụng, khả năng bơi lội kém khi thả dễ chìm đáy gây tỉ lệ hao hụt lớn. Không dùng cá bột quá già, cá nở ra bị lưu giữ quá lâu trong bể ấp, cá đói có nhiều xác không khỏe. Không ương cá dị hình, còi cọc và yêu cầu cá bột khỏe, nhanh nhẹn, đúng ngày tuổi.
Cách chăm sóc và quản lý
Trong quá trình ương nuôi yêu cầu sử dụng loại, cỡ, chất lượng thức ăn và số lầm cho ăn phù hợp với từng loài, từng giai đoạn phát triển của cá. Chế độ bón phân gây màu và cấp nước ao được điều chỉnh theo màu nước, theo nhiệt độ môi trường và sự phát triển của cá. Bên cạnh đó, bà con thường xuyên theo dõi để ngăn chặn sự xâm nhập của địch hại vào ao ương để tránh hao hụt do địch hại và quan sát để phòng trừ và xử lý bệnh kịp thời.
Thu hoạch và tiêu thụ
Ương cá giống có lãi suất cao do chu kỳ ương nuôi ngắn, tiêu tốn ít thức ăn nếu chúng ta có kỹ thuật tốt, có uy tín và kế hoạch rõ ràng. Trước khi thu hoạch cần luyện dẻo cho cá vì ở giai đoạn này cá còn nhỏ, sức đề kháng yếu, khả năng chống chịu thấp nếu ta không luyện dẻ ch cá thì tỷ lệ cá giống thu hoạch được sẽ hao hụt lớn. Luuyện dẻo cho cá tức là tập cho cá làm quen với môi trường chật hẹp, khắc nghiệt khi đánh bắt, vận chuyển. Trước khi thu hoạch, bà con cần tiến hành xuống ao lùa và khuấy cho ao động để cá tập làm quen với tác động mạnh, duy trì hoạt động đó trong vòng 1 tuần trước khi thu hoạch. Khi thu hoạch cần dự tính tỷ lệ sống, sản lượng để bố trí khách hàng đến mua hết, tăng vòng quay của ao hồ.
  1. Kỹ thuật ương cá bột lên cá hương
Chuẩn bị ao ương giống
Đây là khâu đầu tiên quan trọng trong kỹ thuật ương cá bột lên cá hương, nếu làm tốt khâu này sẽ tạo ra nhiều nguồn thức ăn tự nhiên cho cá, tạo môi trường thuận lợi cho cá hoạt động, sinh trưởng tốt, tránh được địch hại do hạn chế các hang hốc, nơi trú ngụ của địch hại sẽ nâng cao được tỷ lệ sống trong quá trình ương giống.
Bà con nên chuẩn bị ao ương giống có hình chữ nhật với diện tích từ 1.500 – 2.000 m2, ao có độ sâu mực nuóc dao động từ 1,2 – 1,5 m, bờ ao chắc chắn cao hơn mực nước trong ao từ 0,5 – 0,7 m, bờ được kiên cố bằng bê tông hóa càng tốt, nếu không phải được xử lý hết các bụi rậm um tùm, lấp các lỗ hang tránh nơi trú ẩn của các địch hại và hạn chế độ che phủ lên ao, nếu ao bị che phủ sẽ hạn chế sự chiếu sáng dẫn đến hạn chế độ quang hợp trong ao. Ao cần được tát cạn bắt sạch cá tạp và phơi đáy ao từ 3 – 5 ngày. Độ sâu lớp bùn đáy ao lên duy trì từ 10 – 15 cm là hợp lý. Nếu ao có bùn đáy ao dầy, bùn đen cần được vét bớt, nếu ao ít bùn trơ đáy cần tạo lớp bùn đáy cho phù hợp. Sở dĩ cần chú trọng đến lớp bùn dưới đáy ao là bởi, lớp bùn có vai trò là kho dự trữ dinh dưỡng khi nước ao khi có được cấp nước và cung cấp lại dinh dưỡng cho ao nuôi khi nước ao thiếu dinh dưỡng.
Trong quá trình chuẩn bị ao ương giống, các hộ nuôi cần chuẩn bị vôi bột để tẩy khử ao chua, diệt cá tạp và các vi khuẩn gây bệnh cho cá. Lượng vôi tẩy ao phụ thuộc vào độ pH bùn đáy ao, nhìn chung lượng vôi bón cho ao ương tù 7 – 10 kg/100m2 ao, đáy ao được trang phẳng tạo điều kiện thuận lợi cho cá hoạt động bắt mồi và đánh bắt khi thu hoạch. Tùy thuộc vào lượng mùn đáy ao nhiều hay ít mà bà con cần bón bổ sung lượng phân chuồng dao động từ 20 – 40 kg/100m2 đáy ao. Trong quá trình chuẩn bị ao lên dùng phân lợn hoặc phân gia cầm đã ủ, không nên bón ao bằng phân trâu bò và tuyệt đối không được để nước tiểu trâu bò chảy xuống ao ương (bởi độ axit trong nước tiểu trâu bò cao và độ dinh dưỡng thấp và chứa nhiều chất xơ nên tạo màu không tốt cho ao ương.
ca-huong-thuy-san-minh-phu
Cá hương được ương nuôi từ cá bột
Đáy ao sau khi chuẩn bị xong cần được phơi khô có hình dạng nứt chân chim với mục đích thoát hết khí độc ở bùn đáy ao, hơn nữa dưới tác động của ánh sáng mặt trời sẽ diệt hết cá tạp và các sinh vật địch hại ở đáy ao và còn xúc tác cho quá trình phân giải mùn đáy ao tạo các muối dinh dưỡng để khi lấy nước vào ao sẽ cung cấp dinh dưỡng cho sự phát triển của thủy sinh vật.
Trước khi thả cá bột từ 3 – 5 ngày, bà con tiến hành cấp nước vào ao, nước lấy vào ao phải là nguồn nước sạch và được lọc qua lớp lưới nhỏ (1mm) để tránh cặn bẩn và sinh vật phù du vào trong ao dễ gây nguồn bệnh. Nếu nước lấy vào ao quá sớm thức ăn tự nhiên phát triển không được khai thác đúng lúc chúng sẽ già đi không thích hợp với kích cỡ miệng cá bột, hơn nữa khi lấy nước vào ao dễ thu hút ếch nhái đến sinh sản tạo ra nòng nọc, còn nếu vừa mới lấy nước đã thả ngay cá bột khi đó lượng thức ăn tự nhiên có trong ao sẽ không đủ cung cấp cho cá bột, mặt khác nước mới cấp vào ao còn đục sẽ không thích hợp cho sự phát triển của cá bột. Mực nước lấy vào trong ao để ươm cá giống từ 0,6 – 0,8 m, nếu thời tiết quá lạnh có thể nâng mực nước lên 1m, độ trong nước khi thả cá đạt 20 – 30 cm là thích hợp, khi nước ao chuyển màu xanh nõn chuối tức là việc gây màu tạo thức ăn tự nhiên đã thành công.
Tiến hành thả cá bột
Cá bột khi được thả xuống ao uong giống cần tuân thủ đúng ngày tuổi, không quá non và quá già, hoạt động nhanh nhẹn, khỏe mạnh không bị dị hình hay trầy xước trên da, vây và đuôi. Nên thả cá bột vào lúc sáng sớm và chiều tối, khi nhiệt độ ôn hòa, mát mẻ, tránh tròi nắng dễ làm cá sốc nhiệt. Lưu ý nhỏ cho bà con khi thả cá bột xuống ao, cần duy trì cân bằng giữa nhiệt độ nước trong túi cá bột và ngoài ao ương, tránh sự chênh lệch về nhiệt độ cá dễ sốc nhiệt khi thả. Mật độ cá bột được thả trong ao dao động từ 2,5 – 3,5 vạn con/100m2, nếu ương cá chép nên thả thưa hơn một chút để cá có không gian phát triển.
Trong quá trình ương cá bột lên cá hương, bà con không nên thả ghép các loài cá với nhau bởi vì ở giai đoạn này các loài cá nước ngọt nói chung đểu ăn chung thức ăn là động vật phù du, hơn nữa nuôi ghép giai đoạn cá nhỏ sẽ gặp khó khăn khi đánh bắt thu hoạch và phân loại cá giống. Tuy nhiên, nếu các hộ gia đình ương cá bột lên cá hương để đưa sang ao cá giống cho gia đình mà không thể có nhiều ao để ương nhiều loại cá khác nhau thì có thể tiến hành ương chung nhiều loại cá giống trong cùng một ao, điều này sẽ làm hỗn loạn trong việc thu hoạch cá giống vì mỗi loại có thời gian sinh nở khác nhau trong năm lên việc phân loại cần sự chi tiết, tỉ mỉ hơn.
Phương pháp chăm sóc và quản lý
Bón phân cho ao ương: Lượng phân bón cho ao phụ thuộc vào màu nước ao ương giống, thời tiết và lượng nước thay đổi trong ao. Thông thường lượng phân chuồng được hòa loãng và té đều khắp ao trong thời điểm 7 – 8h sáng, trung bình cứ 5 – 7 ngày té 1 lần. Nếu lượng phần chuồng không có sẵn, hoặc không đủ, bà con có thể sử dụng phân N-P-K với lượng tù 0,4 – 0,5 kg/100 m2 ao. Trong thời gian ương nuôi, cần thường xuyên kiểm tra, ngăn ngùa và loại bỏ các sinh vật gây hại, phòng trừ dịch bệnh. Đặc biệt, những ngày sau khi thả cá bột, buổi tối thường xuyên phải soi đèn quanh ao để loại bỏ địch hại ếch nhái, rắn nước tập trung quanh bờ ao và sáng sớm cần kiểm tra xem có bè trứng ếch nhái quanh bờ ao không để loại bỏ.
Để tạo môi trường nước thuận lợi cho sự phát triển của cá giống đồng thời can cứ vào đặc điểm sinh học, tính ăn của loài và điều kiện tự nhiên của từng vùng để điều chính phù hợp về mật độ, phân bón và lượng thức ăn bổ sung cho cá. Ở giai đoạn ương cá bột lên cá hương trong 2 tuần đầu thường dùng thức ăn là đỗ tương ngâm nghiền hoặc thức ăn hỗn hợp được nấu chín hòa loãng té đều quanh bờ ao, ngày  lần vào sáng sớm và chiều tối với lượng thức ăn tù 100 – 200g đỗ tuong/1 vạn cá bột. Từ tuần thứ 3trở đi cá hương đã bắt đầu ăn thức ăn đặc trưng của loài, ví dụ như cá trắm cỏ ăn thực vật thủy sinh (bèo tấm, bèo hoa dâu), cá chép bắt đầu ăn động vật đáy,.. Khi đó thức ăn thường dùng là thức ăn hỗn hợp dạng bột, và được điều chỉnh dựa vào thời tiết và màu nước trong ao ương. Cá bột se ăn trực tiếp một phần thức ăn, phần còn lại nuôi thức ăn tự nhiên và cá sẽ dùng thức ăn tự nhiên này trong quá trình sinh trưởng.
Quản lý nước ao ương: Sau khi ương cá tù 5 – 7 ngày cần thêm nước vào ao để làm loãng nước ao, tạo điều kiện cho thủy sinh vật phát triển tạo thêm thức ăn tự nhiên cho cá và tăng lượng nước để tạo điều kiện cho cá hoạt động, bơi lội và tăng độ thoáng trong ao ương. Bổ sung nước vào ao đảm bảo môi trường diện tích hoạt động phù hợp với khối lượng cá tăng dần trong ao.
vận chuyển cá giống
Cá giống được cho vào túi nilon để vận chuyển đường dài
Thu hoạch và vận chuyển cá hương
Sau khi ương cá tù 3 – 4 tuần, cá đạt kích cỡ 2,5 – 3 cm, cân nặng khoảng 0,5 – 1g/con là kết thúc giai đoạn ương cá hương, nếu muốn nuôi tiếp phải tiến hành san đàn để giảm mật độ. Trước khi thu hoạch cần luyện dẻo cho cá để cá làm quen vói môi trường chật hẹp khi thu hoạch và vận chuyển. Để luyện dẻo dai cho cá cần giảm phân bón, giảm lượng thức ăn trước 2 – 3 ngày và vào thòi điểm mát trong ngày cần kéo cá tập trung trong lưới mềm, mịn khoảng 15 – 0 phút thấy cá có hiện tượng nổi thì tháo lưới cho cá bơi ra. Khi thu hoạch cá cần cho cá nhịn ăn, cá được ép dẻo trong giai lưới hoặc trong bể có cung cấp đủ lượng oxy hòa tan để cá thải hết phân mới đóng cá để vận chuyển đi tiêu thụ.
Đối với cá hương khi vận chuyển đi tiêu thụ thường xuyên vận chuyển kín bằng cách sử dụng túi nilon sạch có chứa nước, cá và bơm căng khí, túi cá được vận chuyển đi tiêu thụ thường đặt nằm ngang mỗi túi đóng với mật độ 60 – 80 cá hương/lít và vận chuyển trong khoảng 8h ở nhiệt độ 25 độ C. Nếu thời gian vận chuyển ngắn hơn có thể vận chuyển được mật độ cao hơn. Mật độ vận chuyển phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường, tình trạng sức khỏe của cá và tùy thuộc vào loài và kích cỡ của cá khi vận chuyển.
  1. Kỹ thuật ương nuôi cá hương lên cá giống
Mục đích của việc ương nuôi cá hương lên cá giống cấp độ I, II là để giải quyết nhu cầu con giống có đủ kích thước, khối lượng đưa vào nuôi thả ở các vùng nước làm cá thương phẩm. Giai đoạn này yêu cầu về môi trường hoạt động rộng hơn nên tốt nhất là sủ dụng những ao có kích thước từ 1.000 – 2.000 m2. Công tác chuẩn bị ao ương nuôi cá hương lên cá giống tương tự như giai đoạn ương nuôi cá bột lên cá hương.
Tuy nhiên mật độ thức ăn, phân bón, thời gian ương nuôi và tỷ lệ hao hụt có sự khác nhau:
Ví dụ như đối với cá trắm cỏ, khi mà tiến hành kỹ thuật ương nuôi cá hương lên cá giống cấp I, lượng bèo, cỏ non, rau xanh cho cá ăn khoảng 30 – 40 kg/1 vạn cá, từ cá giống cấp I nuôi lên cá giống cấp II lượng bèo, cỏ non tăng lên 60 – 80 kg/1 vạn cá.
Đối với cá rô phi hay cá chép, lượng thức ăn hỗn hợp nuôi lên cá giống cấp I tính cho 1 vạn cá như sau: tuần đầu tiên cho ăn 3 kg/1 vạn cá, từ tuần thứ 3 trở đi cho ăn 5 kg/vạn cá. Còn lượng thức ăn hỗn hợp nuôi lên cá giống cấp II tính cho 1 vạn cá được ước lượng như sau: Tuần 5 – 6 là 7 kg, tuần 7 – 8 là 10 kg, tuần 9 – 10 là 12 kg.  Đặc biệt đối với cá chép, cá rô phi nên sử dụng loại thức ăn có hàm lượng đạm thô tù 8 – 35%. Đối với cá trắm đen nên dùng thức ăn viên có hàm lượng đạm từ 35 – 40%.
4. Giaỉ pháp nâng cao tỷ lệ sống của cá giống khi vận chuyển
Vận chuyển cá giống là một khâu đóng vai trò quan trọng quyết định phần lớn đến hiệu quả kinh tế của nhà nông. Để cá giống có tỷ lệ sống cao trong quá trình vận chuyển, bà con cần lưu ý những điểm sau đây:
Tuyển chọn cá giống khi vận chuyển
Đây là khâu có tính quyết định hàng đầu nhằm đảm bảo tỷ lệ sống của cá giống khi vận chuyển. Để chọn được nguồn cá giống có chất lượng tốt ngoài việc chọn mua cá giống ở những cơ sở sản xuất giống có uy tín thì khi mua cá giống vẫn phải đảm bảo các tiêu chí: con giống khỏe mạnh, da trơn bóng, không trầy xước, kích cỡ giữa các con giống phải đồng đều, bơi lội nhanh nhẹn, đảm bảo nguồn giống không bị nhiễm bệnh và không bị bệnh nổi đẩu.
Thông thường cá giống được vận chuyển trong điều kiện thời tiết mát mẻ như buổi sáng hoặc chiều tối, đối với mùa hè thường vào ban đêm khi nhiệt độ giảm xuống mức thấp thì mới vận chuyển. Trong điều kiện thời tiết thu đông thì có thể vận chuyển cá giống cả ngày lần đêm. Mục đích của quá trình vận chuyển này là nhằm ổn định nhiệt độ nước, hạn chế tối đa quá trình hoạt động của cá, giảm quá trình hô hấp và trao đổi chất của cá, vì vậy sẽ giảm đuọc quá trình tiêu hoa lượng oxy hòa tan trong nước khi vận chuyển, do đó sẽ làm tăng mật độ và khoảng cách khi vận chuyển.
Giảm lượng khí Amoniac khi vận chuyển
Khí amoniac sinh ra trong quá trình phân hủy các chất thải của cá và các chất hữu cơ có sẵn trong nước bởi các vi sinh vật yếm khí, vì vậy khi cá thải phân ra ngoài thì các vi sinh vật này sẽ giảm sử dụng oxy trong nước để phân hủy chất thải, dẫn đến làm giảm nhanh lượng oxy hòa tan trong nước đồng thời làm tăng lượng khí amoniac, do đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ sống của cá giống khi vận chuyển. Vì vậy cần phải tìm cách làm giảm hàm lượng khí amoniac bằng cách ức chế hoạt động của vi sinh vật yếm khí trong quá trình vận chuyển cá giống bằng một số phương pháp như: sử dụng nguồn nuóc sạch để vận chuyển; trước khi vận chuyển phải luyện cá từ 3 – 5 ngày túc là cho cá nhịn đói và chịu tác động mạnh của “lực nước” để hạn chế tối đa các chất thải của cá khi vận chuyển. Bên cạnh đó, khi nhốt cá trong bồn hoặc túi vận chuyển phải có máy sục khí hoặc tạo dòng nước chảy nhẹ bằng máy bơm để tránh hiện tượng cá chết ngạt do thiếu oxy. Trước khi vận chuyển lên tắm cho cá bằng dung dịch muối ăn với nồng độ từ  - 3% trong thời gian từ 5 – 10 phút. Muối ăn có tác dụng ức chế quá trình hoạt động của các vi sinh vật vừa có tác dụng phòng bệnh cho cá.
Giảm sự xây xát và mất nhớt của cá giống
Tất cả các khâu từ lúc kéo lưới, cân đo đong đếm, chuyển cá giữa ao, phân loại cá phải thật nhẹ nhàng, nhanh chóng tránh làm xây xát cá. Các công việc này lên làm vào buổi sáng hoặc chiều mát. Cá giống trước khi vận chuyển phải được theo dõi, đánh giá về chất lượng: cá phải khỏe mạnh, bơi lội nhanh thành đàn, toàn thân sáng bóng không có biểu hiện xây xát, không bị mất nhớt, không bị dị hình, không bị bệnh, kích thước con giống phải đồng đều. Tùy theo từng đặc điểm sinh học của cá mà có các cách vận chuyển khác nhau, thông thường có 2 cách vận chuyển như sau: phương pháp vận chuyển kín và phương pháp vận chuyển hở.
Phương pháp vận chuyển hở
Đây là phương pháp mà cả cá và nước tiếp xúc trực tiếp với môi trường không khí bên ngoài.Phương pháp này chỉ nên áp dụng cho quãng đường vận chuyển ngắn dưới 20 km, với lượng cá giống ít và chủ yếu để vận chuyển cá bố mẹ. Dụng cụ vận chuyển thường là thùng, chậu, sọt có lót giấy bóng và trang bị hệ thống sụt khí tạo oxy cho cá. Lưu ý nhỏ đối với phương pháp này: Trước khi thả cá giống xuống ao cần ngâm túi cá xuống dưới nước ao khoảng 15 – 20 phút cho cá làm quen với môi trường nước để cá không bị sốc nhiệt do chênh lệch giữa nhiệt độ nước ao và nhiệt độ trong túi nilon khi vận chuyển. Sau đó mở miệng bao cho nước ngoài ao chảy vào túi rồi từ từ cho cá bơi ra ngoài ao. Vào thời gian mùa hè, nên thả cá lúc trời mát vào buổi sáng sớm từ 6 – 7h hoặc buổi chiều tối tù 17 – 18h hoặc thả cá vào ban đêm.
Cho cá vào túi nilon đựng nước sạch trong quá trình vận chuyển
Cho cá vào túi nilon đựng nước sạch trong quá trình vận chuyển
Phương pháp vận chuyển kín
Đây là cách vận chuyển mà cả cá và nước không tiếp xúc với môi trường bên ngoài. Phương pháp này được áp dụng cho hầu hết các loài cá giống, cá hương, cá bố mẹ. Phương tiện vận chuyển thường là xe máy hoặc ô tô,… Dụng cụ vận chuyển là túi nilon có bơm khí oxy, mỗi túi có thể tích tù 30 – 40 lít. Nếu túi không có đáy thì cần buộc gập để tạo đáy túi, khi buộc cần kèm theo ống dẫn bằng nhựa mềm dài từ 15 – 20 cm ở đáy túi đề phòng khi lượng oxy trong túi giảm dần phải bơm thêm oxy vào trong quí. Sau đó đổ nước sạch vào trong túi và cho cá giống vào, lượng cá giống vận chuyển trong mỗi túi phụ thuộc vào kích cỡ và thời gian vận chuuyển cá giống. Nếu kích cỡ cá giống tù 1 – 1,5 cm thì nên đóng từ 3 – 4 kg cá/túi, nếu kích cơ cá từ 3 – 4 cm thì chỉ nên đóng 2 – 3 kg cá/túi. Sau khi cho cá vào thì buộc chặt miệng túi không cho khôg khí thoát ra ngoài. Nếu khoảng cách vận chuyển đi xa thì cần bơm thêm không khí qua ống nhựa ở đáy túi.
Lưu ý đối với cách vận chuyển này: Phương pháp vận chuyển hở thòi gian vận chuyển không được quá 7h đồng hồ, nếu vận chuyển quãng đường xa trên 10h thì cần bảo quản bao chứa cá bằng thùng xốp đậy kín và duy trì nhiệt độ nước từ 22 – 25 độ C trong suốt quá trình vận chuyển hoặc có thể sử dụng xe bảo ôn để vận chuyển cá.
5. Cách thả cá giống đạt tỷ lệ sống cao
Thời vụ thả cá tốt nhất là tháng 3 tháng 4 hàng năm, nên mùa giống cá ở những cơ sở sản xuất lớn có uy tín nhiều năm trong nghề và vận chuyển trong điều kiện thời tiết mát mẻ. Khi thả cá giống, bà con nên ngâm túi nilon đựng cá vào trong nước ao hồ định nuôi khoảng 10 – 15 phút, nhằm mục đích để nhiệt độ trong túi nilon và nhiệt độ môi trường nuôi cân bằng nhau, tạo điều kiện cho cá làm quen với môi trường sống mới, tránh hiện tượng stress làm cá bị sốc dẫn đến chết. Một lưu ý nhỏ trước khi thả cá xuống ao nuôi cần cho cá tắm qua nước muối để khử trùng trên người cá. Sau đó mở một đầu túi ra, cho nước chảy tù từ vào để cá bơi tự nhiên ra, khi cá ra khỏi bao ½ - /3 số con mới dốc túi cho cá ra hết. Nếu có điều kiện lên quây lưới mắt nhỏ vào 1 góc ao hồ, thả cá giống vào đó, chăm sóc chu đáo khoảng 20 – 30 ngày, bồi dưỡng cho cá giống tăng cường sức khỏe, làm quen với môi trường sống mới thì tỷ lệ sống của cá sẽ cao hơn.
Casachsongda.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét