Cá bột hay còn gọi là cá ương là một giai đoạn phát triển trong vòng đời của loài cá. Đời sống của chúng bắt đầu từ khi trứng cá nở thành ấu trùng, sau đó chuyển đổi sang 1 cá thể thuần thục thì gọi là cá giống. Cá giống được coi là mô hình nhân tạo để tạo ra những thương phẩm hảo hạng ngày nay. Việc chủ động được nguồn giống sẽ phần nào giúp bà con ngư dân khắc phục được tình trạng nhập khẩu con giống không rõ nguồn gốc, tránh mầm bệnh và đảm bảo được chất lượng trong vụ nuôi.
Kỹ thuật ương cá bột lên cá giống
Điều kiện bể ương: Chuẩn bị ao đất để ươm cá giống. Đối với các loại cá nước ngọt như cá rô phi,.. chúng có thể sống được ở diện tích ao nuôi nhỏ hoặc lớn. Tuy nhiên, nếu như ao có diện tích quá nhỏ sẽ làm hiệu quả kinh tế kém và khó tạo ổn định môi trường, nhưng ao quá lớn việc chăm sóc quản lý phức tạp, do đó nên chọn ao ương giống khoảng từ 300 – 1000 m2.
Mô hình ươm cá bột lên cá giống trong ao
Ao ương giống phải chủ động được trong việc cấp thoát nước khi cần thiết, chiều sâu mực nước trong ao phải từ 1,5 – 2m để cá có không gian di chuyển và trú ẩn khi trời nắng nóng hoặc trở rét. Mặt ao nên vớt hết bèo, rác để ánh mặt trời có thể chiếu xuống được nước, cung cấp nguồn oxi giúp cá hô hấp và tạo điều kiện cho các vi sinh vật phát triển làm nguồn thức ăn tự nhiên cho cá. Trên bờ ao, nên được bao bố kiên cố, phát hết cỏ dại tránh um tùm làm cho ếch nhái trú ẩn (vì trứng ếch nhái có thể mang mầm bệnh vào trong ao nuôi) và những động vật ăn thịt như rắn,.. có thể săn cá giống làm nguồn thức ăn.
Trước khi tiến hành thả cá ương nuôi lên cá giống, bà con nông dân cần cải tạo hệ thống ao bằng các biện pháp giống như thả cá nuôi, nhưng sau khi lấy nước vào 1/3 ao phải tiến hành bón phân tạo màu nước để tạo nguồn thức ăn cho cá. Thông thường các ngư dân thường sử dụng phân vô cơ (urê & super photphate) theo tỷ lệ N/P = 2/1, liều lượng tương ứng 200 g/100m3 nước; Sử dụng phân xanh từ những cây họ đậu hoặc lá cây so đũa với liệu lượng 10 – 15 kg/100m2, đối với phân xanh bà con lên bó lại thành nhiều bó rồi dìm xuống ao ương không cho nổi lên mặt nước. Trong trường họp sử dụng phân chuồng, nên điều chỉnh liều lượng từ 25 – 30 kg/100m2, rải đều khắp mặt đáy ao. Sau khi bón từ 3 – 5 ngày nước chuyển sang màu xanh nõn chuối thì tiến hành thả cá ương nuôi. Trong quá trình nuôi từ cá bột lên cá giống, bà con cần tăng mực nước lên từ từ trong vòng 5 – 7 ngày ở độ cao từ 1,2 – 1,5m.
Nhiều hộ gia đình không có ao để ương cá giống, có thể đào hố xây bể xi măng lót nilon để ương cá, diện tích khoảng vài chục m2, phải giữ được nước, không rò rỉ, chiều sâu mực nước duy trì ở mức 0,5 – 0,7 là thích hợp. Trước khi ương, bể phải được rửa sạch phơi nắng từ 1 - ngày sau đó cho nước sạch vào bể, ngày hôm sau có thể cho cá vào uong. Do diện tích nhỏ, nên khi ương cá giống trong bể không cần phải bón phân, có thể sử dụng nguồn thức ăn chế biến trong những ngày đầu để cá có thể sinh trưởng tốt. Lưu ý nên thả nhiều thức ăn xuống bể gấp 2 lần để gây màu nước xanh, tạo điều kiện cho tảo phát triển làm thức ăn cho cá.
Thức ăn cho cá ương
Đối với ao nuôi, mật độ thả cá tù 1.500 – 2.000 con/m3 là thích hợp. Trong tuần đầu tiên, cho cá bột ăn lòng đỏ trứng gà và sữa bột đậu nành với khẩu phần: 3 lòng đỏ trứng gà với 100g sữa bột cho 10.000 con cá bột/ngày. Bà con luộc chín lòng đỏ trứng gà rồi nghiền nhỏ hòa tan với nước sạch, đậu nành ngâm trong nước ấm 24h rồi đem xay nhuyễn thành bột, rồi hòa tan với nước rải đều xung quanh ao. Mỗi ngày cho ăn 3 lần vào: 7h sáng, 11h trưa và 17h chiều, đối với bữa tối lên tăng lượng thức ăn lên gấp đôi để cá có thể dự trữ năng lượng trong ban đêm.
Nên cho cá giống ăn vào thời điểm sáng và chiều tối
Bắt đầu từ tuần thứ 2 trở đi, các hộ nuôi tiến hành cho cá giống ăn cám, tấm gạo và bột cá (hoặc cá tươi nhỏ) với tỷ lệ tương ứng như sau: 30% cám + 70% bột cá, mỗi lần cho ăn với liều lượng từ 300 – 500 g/10.000 cá/ngày. Thức ăn từ bột cá hay gạo tấm lên được nấu chín rồi đặt trong sàn ăn, mỗi ngày cho ăn lần vào sáng sớm và chiều mát, mỗi lần chia đều theo tỷ lệ 50:50. Tránh cho cá ăn vào lúc tròi nắng hoặc mưa to.
Sau khi ương cá giống được 1 tháng, thành phần thức ăn của cá sẽ được đa dạng hơn gồm: cám gạo + bột cá (hoặc phế phẩm của nhà máy thủy sản như đầu cá, tôm nghiền nhỏ) theo tỷ lệ 40% cám gạo + 60% bột cá. Khẩu phần ăn từ 3 – 5 % so với trọng lượng đàn/ngày. Ngoài ra, trong ao ương cá giống còn có nguồn thức ăn tự nhiên từ các loại sinh vật phù du phát triển trong ao với hàm lượng dinh dưỡng lớn. Đây được coi là nguồn thức ăn tươi sống rất tốt cho sự phát triển của cá giống do đó trong ao ương cá luôn duy trì màu nước xanh (nguồn nước màu xanh này có thể được tạo nên bằng cách gây màu nước hoặc do nguồn thức ăn dư thừa trong quá trình cho cá ăn).
Chăm sóc, quản lý ao ương cá giống
Cần đảm bảo đủ số lượng và chất lượng nguồn thức ăn trong quá trình ương cá bột lên cá giống, nếu thiếu thức ăn cá sẽ không phát triển đồng đều và những con cá lớn hơn sẽ ăn các con cá nhỏ, làm hao hụt tỷ lệ cá giống cho sản xuất. Trong quá trình ương giống nên hạn chế thay nước nhiều lần nếu như nguồn nước không bị ô nhiễm, bởi vì kích thước của cá bột nhỏ dễ bị lọt ra ngoài từ ống thoát nước, mặt khác nguồn thức ăn tự nhiên cho cá sẽ không được đảm bảo. Tuy nhiên để kích thích hoạt động bắt mồi của cá, cũng như thay đổi điều kiện sinh thái của môi trương nuôi bà con nên thay nước định kỳ 10 – 15 ngày/lần, mỗi lần thay 1/3 lượng nước có trong ao ương.
Đối với ao ương cá giống, trên bề mặt nước có thể thả bèo hoặc rau muống với tỷ lệ bằng 1/20 diện tích nhằm hấp thu một phần chất dinh dưỡng tránh ô nhiễm môi trường và hạn chế sự phát triển quá mức của tảo. Bên cạnh đó, cần giữ gìn vệ sinh trong không gian ương giống, theo dõi tình hình hoạt động của cá giống để có biện pháp phòng ngừa dịch bệnh và dịch hại sát cá ương. Dọn sạch cây cỏ xung quanh bờ ao, kiểm tra hệ thống cổng cấp thoát nước có rò rỉ hay không để tránh cá theo dòng chảy ra ngoài làm hao hụt sản lượng vụ nuôi. Sau khi cá giống đạt 60 ngày tuổi đạt chiều dài 3 – 5 cm và có trọng lượng 1 – 2 g/con, cho tỷ sống đạt 15 – 30%.
Mô hình sinh sản nhân tạo cá rô phi
Cá rô đơn tính dòng đường nghiệp được coi là thương phẩm của người dân tỉnh Hòa Bình. Tại khu vực này, có nhiều cơ sở nhân giống giống cá này cung cấp sống lượng cá giống lớn cho các tỉnh lân cận. Việc sinh sản nhân tạo cá rô phi đơn tính đòi hỏi phải có kỹ thuật khoa học từ khâu chọn lọc cá bố mẹ đến chăm sóc và quản lý.
Kỹ thuật sinh sản cá rô phi đơn tính từ lai tạo
Chọn cá giống bố mẹ để nhân tạo
Vào đầu mùa mưa, khi cá đã thành thục trong vấn đề sinh dục, sẵn sàng đẻ trứng thì tiến hành cho cá nhân giống để tạo nguồn cá giống phục vụ cho nuôi trồng thủy sản. Qúa trình chọn cá bố mẹ cho sinh sản cần tiến hành một cách khoa học: cá giống phải thật khỏe mạnh, không xay xát; tỉ lệ đực cái xấp xỉ 1:2 (1 đực : 2 cái). Cá giống cái bụng phải to mềm, lỗ hậu môn lồi, màu hồng. Con đực khi vuốt nhẹ có tinh màu trắng sữa chảy ra.
Cá rô phi giống được nuôi trong lồng lưới plastic có kích thước 2 x 2.5 x 2 m, trọng lượng cá giống dao động từ 7 – 0 con/kg, thả với mật độ là 5 kg/m3. Trong quá trình nuôi, thức ăn chế biến có hàm lượng protein dao động từ 30 – 32 % được dùng để cho cá ăn với liều lượng tù 1,5 – 2 % trọng lượng cơ thể/ngày.
Nuôi vỗ thành thục cá giống bố mẹ
Kích thích sinh sản của cá rô phi
Không gian cho cá rô phi sinh sản có thể làm bằng bể xi măng, bể composite hoặc thau nhựa,.. Tiến hành rửa sạch dụng cụ cho đẻ, lấy nước sạch với chiều sâu 20 – 40 cm. Các loại hormon sử dụng để kích thích cá rô phi sinh sản như HCG, LH-Rha và não thùy thể cá chép với các mức liều lượng khác nhau. Bằng phương pháp tiêm một liều quyết định duy nhất để kích thích cá cái sinh sản, riêng cá đực liều sử dụng chỉ bằng 1/3 đến ½ liều sử dụng cho cá cái, tỷ lệ cá đực cái sinh sản là 1:1.
Bể ấp trứng dùng bể composite hoặc bể xi măng, tiến hành rửa sạch bể, lấy nước vào với chiều sâu khoảng 40 – 60 cm. Trong thời gian ấp trứng phải điều chỉnh sục khí để trứng cá không gom lại 1 chỗ và định kỳ thay nước 1 lần/ngày. Sau khi cá nở từ 2 – 3 ngày, chuyển cá xuống ao để ương thành cá giống.
Casachsongda.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét