Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017

Một số mô hình nuôi cá giống làm giàu của ngư dân hiện nay

Sản lượng cá trong kim ngạch xuất nhập khẩu thủy sản trong thời gian gần đây giảm sút nghiêm trọng do bị khai thác quá mức. Trước thực trạng này, Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản đã nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất cá giống thương phẩm, với kỹ thuật nuôi cá thương phẩm trong ao nước tĩnh và nước chảy, cho ra đời những con giống đạt tỷ lệ cao về số lượng và chất lượng.
A: MÔ HÌNH NUÔI CÁ GIỐNG TRONG AO NƯỚC TĨNH
  1. Yêu cầu kĩ thuật xây dựng ao nuôi cá tăng sản
Diện tích ao nuôi
Diện tích ao nuôi to hay nhỏ ảnh hưởng rất nhiều đến đời sống của cá giống thông qua biến đổi của điều kiện lý hóa của môi trường. Nếu ao nuôi có diện tích lớn thì độ thoáng cnagf lớn, điều kiện lý hóa học càng ổn định, thủy sinh vật đặc biệt là các sinh vật phù du càng phát triển phong phú, làm nguồn thức ăn để chăn nuôi cá giống tốt hơn. Ngược lại, nếu diện tích bề mặt ao quá nhỏ, độ thông thoáng thấp, yếu tố lý hóa học biến đổi nhảnh sẽ làm cho nguồn thức ăn tự nhiên kém phát triển, không thuận lợi cho sự phát triển của cá nuôi, thậm chỉ dễ bị chết khi điều kiện thay đổi đột ngột. Nhưng thực tế cũng cho thấy, nếu diện tích ao nuôi quá lớn thì việc đầu tư cơ sở vật chất sẽ rất tốn kém, khó khăn trong việc tổ chức quản lý, chăm sóc, đánh bắt và thu hoạch. Ngược lại, với ao nuôi cá nhỏ thì sẽ ít phải đầu tư, quản lý một cách chặt chẽ, dễ dàng. Chính vì thế, tùy theo điều kiện kinh tế mà xây dựng hệ thống ao nuôi cá giống có diện tích vừa phải. Theo Trung tâm Thủy sản Minh Phú chia sẻ: Diện tích ao nuôi phù hợp nhất dao động từ 500 – 2.000 m2.
Độ sâu của đáy ao và độ dầy lớp bùn đáy
Mô hình nuôi cá ao nước tĩnh
Mô hình nuôi cá giống trong ao nước tĩnh tại Hòa Bình
Tiêu chuẩn về độ sâu được quy định rất chặt chẽ trong ao nuôi cá giống thương phẩm. Theo anh Nguyễn Văn Vân, 1 chủ đầu tư mô hình nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở Hòa Bình chia sẻ: “Thường trong phạm vi độ sâu từ 0,8 – 3,5m năng suất cá nuôi cũng sẽ tỷ lệ thuận với độ sâu, hay nói cách khác trong phạm vi độ sâu giới hạn, ao càng sâu năng suất càng cao. Bởi ao sâu chứa được nhiều nước, nhiều thức ăn tự nhiên, các yếu tố thủy lý ổn định từ đó tạo điều kiện cho cá phát triển”.
Theo các chuyên gia của Trung tâm Thủy sản Minh Phú, nếu ao nuôi quá nông thì các yếu tố môi trường như nhiệt độ có sự thay đổi lớn dẫn đến hàng loạt các yếu tố khác thay đổi theo, ao dễ bị đục ahr hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cá giống. Ngược lại ao nuôi quá sâu lại ảnh hưởng đến phát triển của hệ thủy sinh vật, công tác cải tạo và đánh bắt gặp nhiều khó khăn. Các nghiên cứu từ thực tế nuôi trồng cho hay, ao nuôi cá giống thương phẩm không được vượt quá 3,5m, vì ở độ sâu này khả năng quang hợp của thực vật thủy sinh rất yếu, đặc biệt ở tầng nước đáy sẽ thiếu oxy, phân giải yểm khí sinh ra nhiều khí độc ở đáy ao. 
Đối với mô hình nuôi cá nước tĩnh, ao nuôi cá tăng sản nên có độ sâu từ 1,5 – 2m, khi đào ao cần xét đến các yếu tố như: Các điều kiện về pH, chất đáy, chất đất,.. ở các vùng chua mặn không nên đào ao nuôi quá sâu, vì ở độ sâu càng cao thì độ pH càng thấp sẽ ảnh hưởng không tốt. Với các ao đất thịt hay đất thịt pha cát dễ đào sâu hơn so với các ao đất cát. Đối với các ao nuôi thì nên tổ chức thi công đào sâu, còn các ao cũ chỉ nên cải tạo. Nếu việc đào sâu không thực hiện được thì nên xem xét đến khả năng làm bờ ao cao hơn 1 chút để tạo nhiều không gian cho ao nuôi cá giống thương phẩm.
Chất đáy của ao cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất nước, sinh vật làm thức ăn cho cá. Đáy là đáy cát hoặc sỏi cát dẫn đến sự kết dính kém, độ thẩm thấu của nước lớn, lượng nước trong ao thường xuyên bị hao hụt kéo theo chất dinh dưỡng trong ao cũng bị mất đi. Ở môi trường chua mặn, rất khó gây màu nước, sinh vật làm thức ăn kém phát triển do khi bón phân xuống ao bị keo đất hấp phụ chất dinh dưỡng trên bề mặt làm mất tác dụng của phân, mặt khác khả năng phân hủy của phân trong môi trường chua rất kém, từ đó làm mất hiệu quả của việc bón phân. Chính vì vậy, chất đáy tốt nhất là đất thịt, đáy là bùn pha cát hoặc đất cát có độ dày từ 20 – 25 cm, đáy ao phải bằng phẳng, ao tù đọng lâu năm hoặc đã nuôi cá nhiều lần trong năm lượng bùn đáy sẽ rất nhiều vì vậy phải có kế hoạch nạo bớt lớp bùn đáy.
Nguồn ngước và chất nước trong ao nuôi
Mô hình nuôi cá giống trong ao nước tĩnh phải chủ động được trong việc cấp thoát nước, bổ sung kịp thời nước trong ao để ao luôn duy trì mực nước từ 1,5 – 2m. Chất nước trong ao không được nhiễm bẩn, không có chất độc, hàm lượng oxy từ 3 mg/l trở lên, độ pH thích hợp là 6,5 – 7,5. Việc thường xuyên cấp nước cho ao nuôi cá giống có tác dụng kích thích sự phát triển của các sinh vật làm thức ăn tự nhiên cho cá và cải thiện môi trường nuôi giúp cá tăng trưởng nhanh và cho năng suất cao.
  1. Chuẩn bị ao nuôi cá giống
Mục đích của việc tẩy dọn, nạo vét bờ ao là áp dụng các biện pháp kĩ thuật tạo điều kiện tốt nhất về môi trường cho cá sinh trưởng tốt trong chủ kì sinh sản tiếp theo. Việc chuẩn bị ao nuôi cá giống cần tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:
  • Làm cạn hết nước trong ao nuôi, rồi phơi đáy ao từ 3 – 5 ngày, vét bớt bùn đáy ao nhằm thoát khí độc tích tụ ở đáy ao, tu sửa lại bờ ao, lấp hết các hang hốc quang bờ để không mất nước do rò rỉ và tránh nơi trú ẩn của các địch hại. Phát quanh cây cối um tùm xung quanh ao nhằm tăng lượng chiếu sáng xuống ao và làm tăng độ thoáng của ao.
  • Dùng vôi để khử trùng đáy ao với liều lượng từ 7 – 10kg/100 m2, rắc đều xung quanh ao. Liều lượng vôi bón cho ao tùy thuộc vào độ pH lớp bùn ở đáy ao, nếu ao đất sét chua nên bón với liều lượng cao hơn từ 10 – 12 kg/m2.
  • Bón phân gây màu nước ngay từ ban đầu để tạo nên nguồn thức ăn tự nhiên cho cá giống. Đối với nguồn phân hữu cỡ thì bón từ 20 – 30 kg phân chuồng/100 m2, kết hợp 8 – 10 kg phân xanh. Đối với nơi nghèo nguồn phân có thể sử dụng 10 – 15 kg phân chuồng, 8 – 10 kg phân xanh kết hợp với 0,3 – 0,4 kg phân đạm ure/100m2. Đối với ao nuôi trong hệ VAC hoặc VAC-R đã có sẵn nguồn phân bón, bùn đáy ao nhiều màu không nên nhất thiết bón phân khi tẩy dọn ao.
  1. Thả cá giống vào ao nuôi
Thời vụ thả cá giống
Đối với các ao nuôi cá nước ngọt như cá rô phi, cá chép, cá trắm,… cá giống được thả vào hai vụ chính: vụ xuân từ tháng 2 – 3, vụ thu từ tháng 8 – 9. Ở khu vực miền Bắc không nên thả những giống cá chịu lạnh kém trong vụ thu như cá rô phi, cá chim, cá tra,.. nếu không có biện pháp phòng chống rét cho cá trong mùa đông.
Nuôi cá ao nước tĩnh
Nuôi cá ao nước tĩnh có thể nuôi được nhiều loài khác nhau
Tiêu chuẩn thả cá giống
Tiêu chuẩn cá giống hiện nay phải lấy tiêu chuẩn chiều dài cá làm chính, bên cạnh đó phải xét đến khối lượng, hình thái ngoài, màu sắc, bệnh tật, độ đồng đều. Cá giống thả trong ao có hai loại chính: loại được sản xuất trong năm (thương thả vào vụ thu) và loại được giữ qua đông (còn gọi là giống lưu) thường được thả vào vụ xuân. Đối với cá giống lưu như cá mè, cá trắm, cá lăng thường được thả vào đầu năm, cỡ cá biến động từ 50 – 100 g/con (cá trắm, cá chép có thể từ 100 – 200 g/con). Thả cá giống có nhiều ưu điểm nhưng vì điều kiện sản xuất cá giống lớn thường gặp nhiều khó khăn như tốn kém về thức ăn và ao nuôi, do càng lớn tốc độ tăng trưởng cảu cá càng chậm nên không áp dụng được các tiêu chí trên thường chỉ giải quyết đuọc 10 – 15% lượng cá giống trong ao. Tuy nhiên, thả cá giống quá nhỏ tỷ lệ hao hụt sẽ lớn, cá thu hoạch nhỏ, giá trị thương phẩm kém, năng suất và sản lượng thấp, nhiều nơi còn không thu hoạch kịp cá vì chưa đủ kích cỡ khi vào vụ đông hoặc mùa mưa bão việc giữ cá qua đông còn khó khăn và tốn kém hơn nhiều. Vì vậy chú ý khi thả cá giống nhỏ vẫn không nên thả với mật độ quá cao.
Đối tượng nuôi chính phụ
Một số loài cá thích hợp với điều kiện nuôi đơn như cá chép, cá quả hoa, cá rô phi đường nghiệp. Đối với một số loài khác lại thích hợp với việc nuôi ghép như cá trắm cỏ, cá trắm đen, cá trôi,.. Việc nuôi ghép là để tận dụng đặc điểm phân bố theo từng tầng nước của các loài cá khác nhau từ tầng mặt xuống tầng đáy, từ đó có thể tận dụng tối đa thể tích nước. Bên cạnh đó, việc nuôi ghép các loại cá giống với nhau sẽ tận dụng được nguồn thức ăn tự nhiên ở các tầng nước khác nhau, giải quyết nhu cầu đòi hỏi oxy của các loài cá và giải quyết một số ảnh hưởng tiêu cực như hạn chế sự tăng quần đàn không theo ý muốn (như cá rô phi đường nghiệp). Trong điều kiện nuôi quảng canh và bán thâm canh, nuôi ghép thường cho năng suất, sản lượng cao hơn, do đó hình thức nuôi này đang được phổ biến rộng rãi tại các trang trại nuôi trồng thủy sản.
Khi xác định nuôi ghép các loài cá với nhau, bà con cần xác định rõ loài nào là chính loài nào là phụ. Đối tượng nuôi chính phải chiếm từ 40% trở lên. Điều kiện để xác định đối tượng nuôi chính bao gồm:
  • Loài cá có năng suất chất lượng cao nhất, giải quyết được yêu cầu cảu thị trường (cho người tiêu dùng và xuất khẩu).
  • Khả năng giải quyết con giống ở vùng đó tốt và khả năng giải quyết nguồn thức ăn và phân bón hợp lý.
  • Đối tượng nuôi phụ có thể là một loài, cũng có thể là nhiều loài và đáp ứng được 1 số yêu cầu trong ao nuôi như: không cạnh tranh thức ăn với đối tượng nuôi chính, tận dụng được sản phẩm phế thải (chủ yếu là phân) hoặc thức ăn dư thừa của đối tượng nuôi chính; dễ giải quyết trong vấn đề con giống và có hiệu quả kinh tế nhất định.
Mật độ thả cá giống
Mật độ thả cá giống là chỉ số lượng cá giống trong một đơn vị diện tích ao. Đây là một chỉ tiêu kỹ thuật cần được xác định một cách hợp lý. Đon vị tính theo quy định thống nhất là con/m, con/ha; có 1 số nơi dùng con/sào, hay con/m3. Đối với ao nuôi ghép thông thường tổng cá thả với mật độ 2 – 3 con/m2. Mật độ cá thả quá dày hay quá thưa đều ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng và giá trị thương phẩm của từng đối tượng, vì vậy cần dựa vào diện tích ao và khối lượng cá giống để xác định mật độ sao cho phù hợp.
Tỷ lệ sống của cá giống trong ao
Đối với mô hình nuôi cá giống ao nước tĩnh, việc xác định tỷ lệ sống cho từng đối tượng nuôi là một biện pháp kỹ thuật quan trọng cần làm, nhằm rút ra kinh nghiệm trên mỗi khâu kỹ thuật cho chu kỳ nuôi năm sau, hạn chế được tỷ lệ hao hụt trên mỗi đối tượng nuôi, từ đó nâng cao năng suất và hiệu quả của cá nuôi. Tỷ lệ sống của cá giống phụ thuộc vào 1 số yếu tố sau: tiêu chuẩn cá giống khi thả; kỹ thuật và kinh nghiệm thả cá giống; chất lượng và kỹ thuật cải tạo ao nuôi; quy trình quản lý, chăm sóc và thu hoạch; tình hình địch hại và bệnh cá. Nhìn chung, muốn xác định được một cách chính xác phải thường xuyên ghi chép đầy đủ số lượng cá giống thả ban đầu, cá thả bổ sung và số lượng cá thu hoạch trên từng đối tượng cụ thể.
B: MÔ HÌNH NUÔI CÁ GIỐNG AO NƯỚC CHẢY
Mô hình nuôi cá giống ao nước chảy là hình thức nuôi tiên tiến của nghề nuôi trồng thủy sản. Trong hình thức nuôi này, vận dụng 2 phương pháp sinh lý và sinh thái để nâng cao năng suất ao nuôi trên 1 đơn vị thể tích nước. Nuôi cá giống ao nước chảy còn có thể gọi là nuôi cá thay nước, có một số đặc điểm sau:
- Chỉ nuôi được trong 1 diện tích rất nhỏ nhưng lại cho năng suất cao gấp 2 – 3 lần mô hình nuôi cá giống ao nước tĩnh. Cá được nuôi với mật độ dày, tận dụng tối đa diện tích và khối nước trong ao.
- Sử dụng nguồn nước lưu thông để thường xuyên cung cấp đủ oxy cho cá, điều hòa nhiệt độ giữa các tầng nước, loại được các khí độc ra khỏi ao, loại được các chất thải từ cá nuôi và thức ăn thừa. Môi trường sống của cá luôn được trong sạch, tạo điều kiện cho quá trình trao đổi chất giúp cá sinh trưởng nhanh hơn.
- Đối tượng nuôi chủ yếu là các loài cá ăn trực tiếp như cá chép V1, cá diêu hồng Trung Quốc, cá trắm cỏ, cá rô phi đường nghiệp,… còn các đối tượng nuôi ăn gián tiếp thông qua gây màu nước lại không thích hợp do ao nuôi nước chảy thường xuyên khó gây và giữ màu.
- Thiết bị nuôi đơn giản, dễ xây dựng và dễ quản lý chăm sóc; chủ động sản xuất thức ăn, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của cá; chủ động cho ăn, chăm sóc chu đáo, phòng và trị bệnh kịp thời, chủ động kiểm tra tốc độ sinh trưởng của cá, chủ động thu hoạch đáp ứng nhu cầu của thị trường.
- Có thể chủ động nuôi chuyên một đối tượng nuôi có giá trị cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh đó, đối với mô hình nuôi cá giống ao nước chảy có thể áp dụng ở những nơi không có điều kiện nuôi cá ao nước tĩnh, thích hợp với nhiều loại quy mô từ phạm vi nhỏ trong gia đình đến phạm vi nuôi công nghiệp. Trong thực tế những mô hình nuôi cá giống ao nước chảy hiện nay nằm ở các tỉnh vùng núi, vùng sâu, vùng xa nơi trình độ dân trí còn nhiều hạn chế về khoa học kỹ thuật, hạn chế trong đầu tư nên năng suất mang lại ở hình thức nuôi này còn nhiều hạn chế.
Hệ thống cấp thoát nước trong mô hình nuôi cá ao nước chảy
Hệ thống cấp thoát nước trong mô hình nuôi cá ao nước chảy
  1. Kỹ thuật nuôi cá giống ao nước chảy
Lợi dụng địa hình ở những nơi thượng nguồn, có lưu lượng nước chảy qua gồm các hệ thống sông suối, kênh rạch, mương thủy lợi,.. để tiến hành đào ao nuôi cá. Tùy theo nguồn nước cấp cho ao nhiều hay ít, khả năng cung cấp thức ăn mà xác định diện tích ao nuôi, thường ao nuôi không nên rộng quá 1.000 m2, thích hợp nhất từ 100 – 500 m2.
Chiều dài ao gấp chiều rộng từ 3 – 5 lần, nước đuọc bố trí chảy theo chiều dài ao. Độ sâu của ao từ 1 – 1,5m, bờ ao cao hơn mặt nước từ 0,8 – 1m, nước cấp vào ao phải là nguồn nước sạch, hợp vệ sinh, hàm lượng oxy đầu vào phải từ 5mg/l trở lên, ph dao động từ 6,5 – 7,5, nhiệt độ nước trong khoảng 20 – 30 độ C (thích hợp nhất là 25 – 27 độ C). Đối với ao nuôi đã sử dụng nuôi cá giống nhiều lần phải tẩy dọn ao trước khi đưa vào vụ nuôi mới. Đối với những nơi có nguồn nước lạnh có thể phát triển nuôi cá lăng đen như ở Hòa Bình, hay cá hồi ở Sapa, Lạng Sơn,…
  1. Thả cá giống vào ao nuôi
Thời vụ thả cá giống hầu như quanh năm, riêng các tỉnh miền núi thường thả vào ao sau mùa mưa bão để tránh lũ quét, quá trình thả cá phải được tiến hành nhanh gọn. Một số ao chỉ có nước chảy trong mùa mưa nên cần phải lưu ý thời điểm và kích cỡ cá giống thả cho phu hợp. Giống cá thả phải đảm bảo đúng yêu cầu về chất lượng và số lượng. Ngoài ra, tiêu chuẩn về chiều dài, cá phải khỏe mạnh, không bị bệnh, không dị hình và phải đồng đều về kích cỡ. Kích thước cá giống có sự khác nhau: cá chép V1 từ 8 – 10 cm, cá trắm cỏ từ 12 – 15 cm, cá rô phi đường nghiệp từ 8 – 10 cm. Mật độ thả dao động từ 4 – 5 con/m2.
Mô hình nuôi cá ao nước chảy
Diện tích chiều dài gấp 3 - 5 lần chiều rộng
  1. Thức ăn cho cá
Thức ăn xanh bao gồm rau, cỏ, bèo, rong cho cá ăn thỏa mãn theo nhu cầu. Thức ăn xanh thường được bỏ trong khung để thuận lợi trong kiểm soát chất lượng thức ăn còn hay hết. Thức ăn tinh gồm cám gạo, bột ngô,.. cần được phối trộn rồi ép viên hoặc nấu thành nắm cho cá ăn. Ở những cơ sở có điều kiện kinh tế nên dùng cám viên nổi với kích cỡ và thành phần phù hợp với từng loài và lứa tuổi. Đối với giai đoạn cá giống mới thả, sử dụng thức ăn viên với lượng 5 – 7 – 10% khối lượng cá/ngày, đối với cá lớn dùng tù 3 – 5 % khối lượng cá.
  1. Chăm sóc và quản lý
Hàng ngày bà con cho cá ăn thức ăn xanh gồm rau,cỏ non, bèo, vào buổi sáng và chiều tối, tránh cho ăn khi trời đang nắng to cá dễ bị sốc nhiệt và chết (Ví dụ: Lượng thức ăn cho cá trắm cỏ dao động từ 30 – 50% khối lượng cá, tùy theo nhu cầu của cá). Thức ăn viên dao động từ 10 – 7 – 5 – 3 % khối lượng cá/ngày. Thường xuyên theo dõi bệnh tật của cá để có biện pháp xử lý kịp thời. Ngoài lượng nước thay hàng ngày theo quy định, phải định kỳ hàng tháng tháo đáy cống để thông thoát các chất bẩn ở đáy ao ra ngoài. Thương xuyên kiểm tra cá để xác định tốc độ tăng trưởng, từ đó điều chỉnh chất lượng và số lượng thức ăn cho hợp lý.
  1. Thu hoạch
Nếu nuôi tháng 2 thì tháng 7 có thể đánh tỉa cá lớn, cuối năm thu hoạch toàn bộ cá nuôi đầu năm. Hiện nay một số cơ sở nuôi cá ao nước chảy sử dụng thức ăn viên công nghiệp có thể rút ngắn chu kì nuôi. Khi thu hoạch cần hạn chế nước chảy vào ao, tháo 1/3 – ½ lượng nước trong ao, kéo lưới 2 – 3 mẻ sau tát cạn bắt sạch.

Casachsongda.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét